Bùi Xuân Đính
Ôn Cố Tri Tân
(i)
Vua Minh Mạng Trị Con Hư Để LàmGương Cho Thiên Hạ
Vua Minh Mạng (1791 - 1841) nổi tiếng trong lịch sử nhà Nguyễn nói riêng, các vương triều phong kiến Đại Việt nói chung không chỉ là vị vua giỏi việc hành chính, giỏi thơ văn mà còn rất nghiêm khắc với trăm quan, người thân; không để các tình cảm thân quen làm ảnh hưởng công việc; không để vợ con, anh em ỷ thế mình mà làm những việc ngang trái. Ông còn nổi tiếng trong việc dạy con. Tuy có tới 142 người con (gồm 78 trai - thường có tên gắn với chữ “Miên”, 64 gái) và tuy rất bận với công việc trong triều, song ông luôn để ý đến họ, thấy họ sai là chấn chỉnh luôn. Câu chuyện dưới đây là ví dụ điển hình về việc răn dạy con rất nghiêm khắc của ông.
Trong
số các con trai của Vua Minh Mạng có Hoàng tử Miên Phú. Cậy thế vua
cha, Phú thường chơi bời lêu lổng. Vào một đêm tháng Một năm Ất Mùi
(tháng 12 năm 1835), trời rét, Miên Phú cùng bọn phủ thuộc là Hoàng Văn
Vân, Bùi Văn Nghị, Bùi Văn Quế tổ chức đua ngựa ở ngoài hoàng thành. Đua
được mấy vòng, Miên Phú về trước, mấy tên phủ thuộc tiếp tục cho ngựa
chạy thi. Vó ngựa rầm rập gây náo loạn nhiều đường phố. Một bà già đi
bên đường tránh không kịp, bị ngựa của Hoàng Văn Vân xéo chết !
Vua
Minh Mạng được tin, sai các quan đại thần là Trương Văn Quế, Tôn Thất
Bằng, Phan Bá Đạt đi điều tra. Ngày hôm sau, Vua nhận được lời Tâu của
các qaun, liền dụ rằng : “Trẫm rất buồn giận, thường ngày Trẫm vẫn
rất nghiêm khắc với các hoàng tử, hễ sai phạm là trừng phạt ngay, chưa
từng dung tha một chút nào. Miên Phú từ nhỏ bẩm tính ngu đần, lời nói
việc làm đều bỉ ổi, lớn lên chỉ rong chơi. Trẫm đã nhiều lần nghiêm khắc
dạy bảo, nhưng không biết chừa và sửa lỗi. Nay (Phú) lại gần gũi
với lũ tiểu nhân tổ chức phi ngựa ngoài đường lớn Kinh thành là nơi
quan quân đi lại đông đúc để đến nỗi xéo chết mạng người. Sao còn xứng
đáng là công tử nữa. Lại không vâng lời cha dạy bảo, thực là đứa con xấu
xa, tội nào còn lớn hơn nữa. Nay để giữ công bằng, quyết không có lý
nghị thân, nghị quý (1). Phàm các em và con cháu chớ nên coi khinh, lấy thân để thử pháp luật, gương sáng chẳng xa, ai nấy phải kính nể”.
Rồi
Vua ra lệnh tước mũ áo của Miên Phú, cách lương bổng hàng năm, giam
lỏng ở nhà riêng để tự mình sửa lỗi, không cho ra ngoài một bước, không
được dự vào hàng các hoàng tử, chỉ được gọi tên là Phú. Phú còn phải bồi
thường cho người bị hại 200 lạng bạc.
Đối với bọn Hoàng Văn Vân, Vua Minh Mạng cũng chỉ rõ : “Vân
là đứa con côn đồ, nương tựa nơi cửa quyền, ngày ngày cám dỗ người khác
càn quấy, quen làm những điều bất thiện. Lại dám phóng ngựa ở nơi công
đường, thực là không coi ai vào đâu. Nếu xét án thì khó mà khép tội giết
người vì lầm lỡ được, phải xử tội thực phạt”.
Rồi
Vua sai chém Vân ngay sau khi hết hạn tạm giam, để “răn những kẻ bám
vào cửa quyền không coi pháp luật vào đâu”. Anh em tên Bùi Văn Nghị, Bùi
Văn Quế bị đày đi phát vãng ở nơi xa, khi đến nơi còn bị đánh 100 gậy.
Lời bàn:
Câu
chuyện có thật trên đây được ghi trong sách Đại Nam thực lục - bộ chính
sử của nhà Nguyễn trên đây gợi lên những suy nghĩ về thái độ ứng xử
trước pháp luật của ba thành phần xã hội.
Trước hết
là Hoàng tử Miên Phú. Là con vua, nhưng Phú không những không biết giữ
cho cha, theo gương cha để trở thành người tốt, để xứng đáng là “con ông
cháu cha; con vua cháu chúa”, đặng kế tục được sự nghiệp của cha; mà
còn ỷ thế cha mình để chơi bời lêu lổng, kết giao với cả bọn du thủ du
thực, làm càn, vi phạm pháp luật, gây chết người, dẫn đến bị tước cả
danh hiệu, bổng lộc, bị phạt giam ... Cho hay, một con người dù đã có
nền, có móng, có bệ đỡ chắc chắn, nhưng không biết tu thân, tích đức,
thì nền móng, bệ đỡ đó cũng sớm bị “tan tành”. Và giữa Hoàng tử quý phái
và người tầm thường, giữa người lẽ ra đáng được trân trọng, nể phục với
kẻ đáng bị lên án, khinh bỉ; giữa người thuộc tầng lớp “thượng thượng
lưu” với kẻ tội đồ chỉ là khoảng cách rất mỏng manh.
Thứ hai,
là bọn Hoàng Văn Vân, Bùi Văn Quế, Bùi Văn Nghị. Là người trong phủ
thuộc, lẽ ra phải có trách nhiệm giám sát, quản lý các hoạt động, hành
vi của con vua, để góp phần cùng vua rèn, giáo dục hoàng tử; hơn thế
nữa, còn có điều kiện để học tập những cái tốt, điểm hay của dòng phái
nhà vua. Vậy mà, bọn Vân, Quế, Nghị không những không làm được điều đó
mà còn ỷ thế là phủ thuộc của con vua để càn quấy, coi thường pháp luật.
Chúng không những phạm tội mà còn gián tiếp đẩy con vua vào vòng tội
lỗi. Và bị vua ra lệnh thẳng tay trị tội chẳng có gì oan ức với chúng.
Thứ ba
là Vua Minh Mạng. Là người nổi tiếng thượng tôn pháp luật, đã không
biết bao lần, ông sâu sát, nghiêm minh xét từng vụ án các quan phạm tội,
kể cả các quan có nhiều công lao và từng là cận thần của mình. Điều này
hẳn là bình thường và “dễ dàng” với một vị quân vương. Song với các em
và các con mình, một vị quân vương dù “rắn” đến mấy, cũng phải có lúc
“mềm lòng”, lưỡng lự trong việc xử lý, bởi liên quan đến tình cảm máu mủ
ruột rà, nhất là khi phải áp dụng các biện pháp phạt bổng, đánh gậy với
họ - những người từ bé sớm được yêu chiều, sống trong nhung lụa.
Tuy
nhiên, Vua Minh Mạng lại không nghĩ như vậy. Ông hiểu rằng, nếu “nương
tay” với Miên Phú, trăm quan và muôn dân sẽ chẳng “tâm phục khẩu phục”
khi cho rằng, vua chỉ nghiêm với quan, dân mà lại dung túng cho cái sai
của con em mình. Ông cũng hiểu rõ, nếu nương tay với Phú, Phú sẽ càng
được thế ỷ vào vua cha, tiếp tục làm những điều càn bậy. Khi đó, ông
không chỉ “mất con” mà còn mất đánh cả thành danh uy tín của mình. Vì
thế, ông đã thẳng tay phạt con mình quen thói ỷ thế cha làm vua để chơi
bời lêu lổng, kết thân với bọn xấu làm điều bất lương; trị tội nghiêm
khắc cả các thuộc hạ của con, dùng con làm “bình phong, lá chắn” để càn
quấy, gây rối trật tự xã hội. Minh Mạng là điển hình của việc dạy con
biết sống theo pháp luật, làm gương cho cả thiên hạ.
Chẳng bù cho một số người trong xã hội ta ngày nay, cậy có tiền, cậy có quyền, nuông chiều con để con hư hỏng; không ít kẻ cậy thế của cha mẹ để làm càn, nhận hối lộ của các cơ quan dưới quyền cha mình, một số kẻ “choai choai” thì càn quấy, vi phạm pháp luật, sau đó lại được cha mẹ dùng tiền, dùng thế “bảo lãnh” xin về, mà những vụ các “công tử nhà quan, nhà giàu” tổ chức đua xe máy, thậm chí đua ô tô trong một vài năm gần đây là ví dụ điển hình.
Chẳng bù cho một số người trong xã hội ta ngày nay, cậy có tiền, cậy có quyền, nuông chiều con để con hư hỏng; không ít kẻ cậy thế của cha mẹ để làm càn, nhận hối lộ của các cơ quan dưới quyền cha mình, một số kẻ “choai choai” thì càn quấy, vi phạm pháp luật, sau đó lại được cha mẹ dùng tiền, dùng thế “bảo lãnh” xin về, mà những vụ các “công tử nhà quan, nhà giàu” tổ chức đua xe máy, thậm chí đua ô tô trong một vài năm gần đây là ví dụ điển hình.
Câu chuyện này cần nêu lên để những người đó suy ngẫm.
(1) Nghị thân:
những người thân thích của vua. Nghị quý : những người có chức tước
lớn, được vua quý trọng. Theo luật pháp phong kiến, những người này
thuộc diện bát nghị, khi phạm tội sẽ được tha tội hoặc giảm tội.
* Bài đăng trong tập sách Những câu chuyện pháp luật thời phong kiến của tác giả, Nxb. Tư pháp, 2005. Tác giả có chỉnh sửa lại lời bình.
* Bài đăng trong tập sách Những câu chuyện pháp luật thời phong kiến của tác giả, Nxb. Tư pháp, 2005. Tác giả có chỉnh sửa lại lời bình.
(ii)
Vua Minh Mạng Trị Tội Bọn Cường Hào Ác Bá Tỉnh, Huyện, Xã
Thời
phong kiến, hệ thống thanh tra của nhà nước gồm các cơ quan: Đô Ngự sử
(từ thời Nguyễn đổi thành Viện Đô sát) ở cấp trung ương, Giám sát Ngự sử
ở cấp liên trấn (thời Nguyễn là cấp liên tỉnh) và Hiến ty ở cấp trấn
(thời Nguyễn là tỉnh). Mỗi cơ quan, mỗi cấp thanh tra này có chức năng,
nhiệm vụ riêng, song đều có nhiệm vụ chung là kiểm tra, giám sát quan
lại, phát hiện các vụ việc tiêu cực của họ. Các cơ quan cũng như các
chức quan của hệ thống thanh tra này hoạt động độc lập, không phụ thuộc
vào nhau và cũng không phụ thuộc vào cơ quan hành chính cũng như cơ quan
ngành dọc cùng cấp hoặc trên cấp. Chẳng hạn, một vị Hiến sát sứ ở Hiến
ty (thanh tra cấp tỉnh), phát hiện một vị quan tỉnh tham tang, có quyền
tâu thẳng lên Viện Đô sát, thậm chí tâu thẳng lên vua, không cần thông
qua Giám sát Ngự sử (thanh tra cấp liên tỉnh); cũng không phải thông qua
Tổng đốc hay Tuần phủ là các quan đứng đầu tỉnh đó.
Ngoài
ra, những khi một địa phương nào đó trải qua binh đao, quan lại ức hiếp
dân chúng gây tao loạn, các vua thường cử đoàn thanh tra đặc biệt, gọi
là Kinh lược sứ, gồm các quan đại thần có uy tín, tài năng và công tâm
đến, có nhiệm vụ làm rõ nguyên nhân, ổn định tình hình; được toàn quyền
giải quyết các vụ việc ở địa phương đó rồi tâu báo lại với vua.
Vào
tháng Tư năm Đinh Hợi, triều Vua Minh Mạng (tháng 5 năm 1827), tại
trấn Nam Định (từ năm 1831 đổi thành tỉnh Nam Định), nhân dân gặp nhiều
đau khổ vì nạn trộm cướp hoành hành và quan lại địa phương nhũng nhiễu,
hà hiếp. Nhiều đơn thư kêu cứu liên tiếp gửi vào triều đình Huế. Vua
Minh Mạng bèn phái một đoàn kinh lược sứ, đứng đầu là các quan đại thần
Nguyễn Văn Hiếu Nguyễn Kim Xán ra Bắc xem xét tình hình.
Đến Nam Định, các quan Kinh lược một
mặt khẩn cấp xét cấp tiền gạo cho những người bị hại ở các làng quê;
mặt khác đi đến các phủ huyện nào cũng cho phép người dân được đến gặp
quan thanh tra triều đình phản ánh tình hình quan lại địa phương.
Sau
một thời gian, đoàn Kinh lược sứ thu được rất nhiều chứng cứ về các
hành vi tham tang, ức hiếp dân chúng của quan lại các cấp trấn này. Một
số quan cấp phủ, huyện bị đưa ra xét xử ngay, khiến cho nhiều quan các
phủ huyện khác lo sợ. Từ nỗi lo sợ “dắt dây” của quan lại các phủ huyện,
các quan Kinh lược sứ phát hiện ra đầu mối của tình hình tao loạn ở
trấn Nam Định chính là một số quan chức trấn này, gồm Cai án Phạm Thanh,
Thư ký Bùi Khắc Tham. Họ là những kẻ “gian tham, giảo quyệt, hung ác,
người trong vùng đều oán giận”. Nghe tin có quan Kinh lược sứ của triều
đình về, các quan tham này đều lo sợ, đến nỗi Phạm Thanh bỏ cả ấn tín,
công sở chạy trốn.
Vụ
việc được tâu lên Vua Minh Mạng. Vua lệnh cho các quan Kinh lược sứ
phải bắt bằng được Phạm Thanh, bằng không sẽ bị xử theo luật “cố thả”.
Vua lại dụ quở trách các quan trấn thần Nam Định: “Lũ các ngươi làm
quan trong hạt lại để có nhiều kẻ tham lam, làm hại dân, rồi lại bao che
cho chúng mà nói dối vua, dám tâu rằng không xét thấy việc tham bỉ. Đến
như Phạm Thanh tội lớn, khi Kinh lược sứ đến nơi thì sự việc vỡ lở
nên lọt tin ra để nó trốn được. Các ngươi trị dân thì vỗ nuôi sai
pháp, giặc nổi như ong; xét quan thì không biết phân biệt, dung túng
thiên vị, như thế thì khép vào tội cách chức chưa thỏa”.
Rồi
Vua ra lệnh giải chức của các quan đầu trấn Nam Định là Đỗ Văn Thịnh,
Trần Chính Đức, Vũ Đức Khuê; đồng thời lệnh cho họ trong ba tháng phải
bắt được những kẻ phạm tội, căn cứ vào đó để xét giảm tội hay không.
Nghe
tin vậy, Bùi Khắc Kham cũng bỏ trốn, nhưng ít lâu sau cùng bị bắt với
Phạm Thanh. Nhân dân địa phương lại đem các việc làm xấu xa của họ ra
tố cáo. Vua Minh Mạng sai giải bọn Thanh - Kham đến chợ trung tâm của
trấn, chém ngang lưng, tịch thu gia tài của chúng đem chia cho những
người dân nghèo.
Đoàn
Kinh lược sứ còn đi xem xét một số phủ, huyện khác, điều tra và đề
nghị trị tội một số quan lại thoái hóa. Tri phủ Kiến Xương Nguyễn Công
Tuy tham tang phải tội chết, Đồng Tri phủ Ứng Hòa Phan Thọ Vực và
Tri huyện Đại An Nguyễn Văn Nghiêm cố ý dung túng cho các nha lại nhũng
nhiễu hại dân đều bị cách chức. Nhiều quan của các nha phủ khác qua tra
xét thấy không xứng đáng chức đã bị truất bãi về làm dân.
Lời bàn:
Vụ việc trên đây được ghi rõ trong sách Đại Nam thực lục -
bộ quốc sử của nhà Nguyễn. Từ vụ việc này cho thấy những bài học giá
trị với việc quản lý xã hội và công tác thanh tra, giám sát quan lại ở
các địa phương.
Một là,
mặc dù hệ thống thanh tra của Nhà nước phong kiến có đủ “lệ bộ”, quy
chế thanh tra, kiểm tra, giám sát khá rõ ràng, thậm chí với nguyên tắc
thanh tra độc lập - như đã nêu ở trên, nhưng vẫn có không ít vụ quan lại
vi phạm pháp luật với hai tội danh, cũng là hai “đặc trưng” cơ bản là
lợi dụng chức vụ để tham tang và ức hiếp dân chúng; nhiều vụ diễn ra rất
trầm trọng, khiến triều đình phải cử đoàn thanh tra đặc biệt về xem xét
mà vụ việc ở trấn Nam Định trên đây là điển hình. Đó là vì, chỉ cần lơi
lỏng một chút trong công tác thanh, kiểm tra, các quan lại “sẵn sàng”
lợi dụng những kẽ hở của pháp luật, tình trạng thiếu hiểu biết pháp luật
và nỗi lo ngại của người dân về những nỗi khổ ải mỗi khi phải đến cơ
quan công quyền, cơ quan pháp luật; sự quan liêu của bộ máy công quyền,
sự dung túng - và cả thông đồng, “bảo kê” của quan trên; tình trạng
thông tin liên lạc kém v. v. để phạm tội. Cho nên, công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát luôn phải thường xuyên, sâu sát mới có thể ngăn chặn,
hạn chế tình trạng quan lại lợi dụng để phạm tội; không thể để khi sự
việc xảy ra mới cử đoàn thanh tra đặc biệt về giải quyết, bởi khi đó,
hậu quả đã rất nặng nề.
Hai là,
cả một “bộ sậu” quan lại ở Nam Định, từ cấp trấn xuống cấp huyện thoái
hóa, biến chất, trở thành “tập đoàn cường hào” hà hiếp dân chúng nặng
nề như thế, nếu không có sự sâu sát và nghiêm minh của các quan Kinh
lược sứ thì chắc chắn, những “quan cường hào” vẫn nhởn nhơ ngoài vòng
pháp luật, sau khi “tai qua nạn khỏi” sẽ quay lại tham nhũng và ức hiếp
dân, dân lại khổ thêm biết chừng nào. Cho hay, thanh tra phát hiện các
vụ việc tiêu cực đã là cần thiết, giải quyết dứt điểm vụ việc đó, hay
nói một cách khác, phải “trị tận gốc, bốc tận rễ” mới là điều quan
trọng.
Ba là,
công lao phát hiện ra những tiêu cực, thoái hóa biến chất của quan trấn
Nam Định đầu tiên chính là những người dân ở trấn này. Cho hay, có hệ
thống thanh tra các cấp với đầy đủ quy chế, quy tắc làm việc rõ ràng
cũng chỉ là một điểu kiện ban đầu, để phát hiện ra các vụ việc tiêu cực
của quan lại địa phương, người làm công tác thanh tra phải gần dân, sát
dân, lắng nghe ý kiến của người dân.
Bốn
là, việc xử lý các quan lại thoái hóa, biến chất ở trấn Nam Định rất
kiên quyết và nghiêm khắc còn có vai trò rất lớn của Vua Minh Mạng.
*Bài
đã đăng trên tạp chí Kiểm tra (Ủy ban Kiêm tra Trung ương) số tháng 8
năm 2011, có tiêu đề “Sâu sát và nghiêm minh”. Nhân vụ Tiên Lãng, tác
giả đổi lại tiêu đề để mọi người cùng suy ngẫm, nội dung không thay đổi. ..............................
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét