Bài đăng phổ biến

Thứ Sáu, 14 tháng 8, 2015


Lược lại lịch sử những vụ đánh bom tự sát, đang diễn ra hằng ngày tại một số nước Trung Đông từ trước đến nay, ta thấy không đáng kể gì so với vụ dưới đây mà tác giả là một nữ điệp báo Việt Nam đã thực hiện cách đây hơn nửa thế kỷ. Mời đọc:
Sự kiện đánh đắm Thông báo hạm Amyot D'inville của lực lượng công an Thanh Hóa, ngày 26/9/1950
Đăng ngày 06 - 02 - 2015
Bước sang năm 1947, bị thất bại nặng nề trong các chiến dịch Biên giới, Việt Bắc, chiến lược đánh nhanh thắng nhanh cũng sụp đổ, thực dân Pháp với âm mưu dùng người Việt trị người Việt chúng đã lôi kéo, mua chuộc các thế lực phản động, gây chia rẽ, nhằm chống phá chính quyền cách mạng.
Nắm được âm mưu của địch, Ty Điệp báo Trung ương đã chủ động, khéo léo đưa đồng chí Hoàng Đạo xâm nhập và đứng vững trong bộ máy Chính phủ Bảo Đại với vai trò Quốc vụ khanh. Để dễ dàng khống chế, thực dân Pháp chủ động đề nghị đưa chiến hạm Amyot D'Inville, một trong những Thông báo hạm lớn nhất của Pháp trong khu vực Thái Bình Dương đến đón phu nhân Quốc vụ khanh Hoàng Đạo ra Hà Nội.
Nhận thấy đây là thời cơ thuận lợi, Nha Công an Trung ương đã xây dựng kế hoạch quyết định đánh bom Amyot D'Inville. Điệp báo Hà Nội và Thanh Hóa được giao nhiệm vụ quan trọng này. Chị Nguyễn Thị Lợi - nữ chiến sĩ Công an Thanh Hóa tình nguyện xin được nhận nhiệm vụ.

Trong vai phu nhân của Quốc vụ khanh, đêm 26-9-1950, đồng chí Nguyễn Thị Lợi (bí số A16) lên tàu Amyot D'Inville. Lấy lý do sức khỏe, phu nhân Quốc vụ khanh vào phòng nghỉ mang theo 30kg thuốc nổ được đựng trong một chiếc vali, thực dân Pháp cứ ngỡ là thuốc phiện. Khoảng 30 phút sau, chiến hạm Amyot D'Inville nổ tung cùng hơn 200 sĩ quan Pháp và hàng trăm tấn thuốc nổ mà thực dân Pháp dự định chi viện cho quân đội Pháp ở Việt Nam, đồng thời làm phá sản âm mưu của thực dân Pháp.
Sự kiện này được coi là một dấu mốc quan trọng, một trong những chiến công vang dội của lực lượng tình báo Công an nhân dân Việt Nam nói chung, công an Thanh Hóa nói riêng trong thời kỳ đầu mới thành lập, góp phần làm nên thắng lợi chung trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.
Ngày 3-8-1995, Nhà nước ta truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân cho nữ điệp viên Nguyễn Thị Lợi.

Tổng hợp


Xây xây cái lồn mẹ chúng mày!
Mình thú thật , mình ít hoặc có thể thừa nhận rằng mình không đọc về Nho giáo- Khổng tử kiểu tứ thư ngũ kinh, mà chỉ biết mỗi câu “ nhân chi sơ tánh bổn thiện” là hết rồi!
Tiện hôm nay đọc cái bài “ dân biết đách gì mà hỏi!” về cái chuyện xây Văn Miếu của bọn Phú Thọ hay Vĩnh phúc bắc kỳ gì đó thì hơi hơi nổi khùng vì cái bọn sở Vô văn hóa ở nơi đó nó vô văn hóa trên cả tuyệt vời! Thôi thì lạm bàn viết cuội một ít, chủ đích cũng là chửi lũ quái thai đó thôi, chứ ông Khổng tử già 2500 tuổi già bỏ mẹ , chửi ổng đâm thành hổn nhẻ!
Trong quan điểm triết lý của Khổng tử là ba cái quan hệ
“ đạo là năm mối quan hệ xã hội cơ bản của con người được gọi là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ luân: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh em, bạn bè. Trong đó, ba mối quan hệ cơ bản nhất, Đổng Trọng Thư gọi là Tam cương - ba sợi dây ràng buộc con người từ trong quan hệ gia đình đến ngoài xã hội. Đức chính là các phẩm chất quan trọng nhất mà con người cần phải có để thực hiện tốt các mối quan hệ cơ bản trên. Khổng Tử nhấn mạnh “Tam đức” (nhân, trí, dũng); ở Mạnh Tử là “Tứ đức” (nhân, nghĩa, lễ, trí); Đổng Trọng Thư là “ngũ thường” (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Tam cương và ngũ thường được kết hợp và gọi tắt là đạo cương - thường.”
( cái này là tui đi ăn cắp của ông kia viết, chứ tôi biết đéo đâu! )
Đại khái chúng ta được nhớn lên trong cái chuẩn mực gạch thước kẻ đầu dòng của triết lý Khổng sư, nếu thằng con nào bứt ra khỏi cái vòng này hay bị cho là loại mất nết, hư hỏng xài không được- Nhưng tiếc cái trên thực tế anh Khổng cũng lang bang khắp xứ, chẳng ai dụng ảnh làm việc triều đình thì phải, nghe nói cái Nhạc Kinh của ảnh bị anh Tần tên Thủy Hoàng đốt mẹ nó mất nên tiêu! Còn có tứ thư thôi!
Đại khái thế! Ấy vậy mà quan tuần phủ Vĩnh Phúc xây cái miếu ( người nam gọi cái Miểu) to chà bá, nuốt hết 300 tỷ quy ra Obama 15 triệu , quy ra máu dân 1 lít phải mua hình như một triệu rưởi thì phải – tương đương 200.000 lít máu dân- mà 30 năm nuôi con từ sơ sinh cho tới được 6 lít máu trong người – chu choa, dân ta phải nuôi mười mấy ngàn mạng mới đổi ra được cái văn miếu thờ cái anh Khổng cha căng chú kiết nào ở đẩu ở đâu ấy.
Tổ mẹ mày mấy thằng quan kia, bay ít học ,bay dốt thì bay cũng phải chừa ít dốt cho thiên hạ chứ, sao bay giành hết mẹ nó vậy? Đã thế lại còn dám chê thiên hạ dốt hơn mình, tổ cha bây, cái giếng bay đang ngồi chồm hỗm bị che chắn hết bới cái mả anh Khổng của tụi bay hết rồi nên bay cố sống cố chết bám vào cái luận của anh Khổng để kiếm tiền lại quả đút túi à? Thật là chán cho cái bọn bay, có mỗi một tỉnh quèn, dân vừa ngheò vừa khổ mà bọn bay uống mẹ nó 200 ngàn lít máu dân, cứ làm như uống bia vậy! Tổ sư bố cái quân bán nước, chắc tính xây di tích Tàu để năm 2020 nhập Tàu bây dâng miếu bợ cặc bọn thiên triều à?


Tiên sư bố cụ kị mả tổ sư bọn bán nước cho Tàu, xây xây cái lồn mẹ chúng mày để chấm mút chứ biết cái đéo gì về Triết học của Khổng tử ( đéo phải của chị) mà bày đặt. Quân phung phí máu dân- để trăm năm sau con cháu tiếp nối sẽ học lịch sử rằng triều đại phong kiến cộng sản đã dùng xương máu của mấy trăm mấy triệu dân Việt xây lăng thờ Tàu , và có ai đó họ Hồ sẽ nhớ có một bà già gân họ Hồ đã từng ngồi tém môi phun trầu toèn toẹt mà chửi rằng “ xây xây cái lồn mẹ chúng mày!”
                                                           Hồ Lan Hương
                                                    (Nghĩa nữ cụ Linh Gia)

Top of Form
Bottom of Form

Thứ Tư, 12 tháng 8, 2015


THÊM MỘT CHUYỆN CỔ TÍCH

Gọi là cổ tích vì câu chuyện cũng đã hơn nửa thế kỷ (1954 – 2014) Đã sáu mươi năm, nhân dân ba tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn và Thái Nguyên, nhất là hai huyện Nguyên Bình và Đại Từ, cùng với cán bộ và sỹ quan Trung Đoàn 367, ai cũng biết chuyện này nhưng không ai kể ra vì “lợi ích của cách mạng”. Chuyện im hơi lặng tiếng vì nói ra là làm hại cho cách mạng ở Việt Nam ta thì kể tối ngày không hết. Nghĩa là nhiều lắm!
Có nhiều chuyện, sau khi đất nước thống nhất thì nội dung đã được bạch hóa một phần hay toàn phần. Câu chuyện này cũng không ai nói nó đã được phép “hé” ra phần nào hay chưa? Nhưng xét riêng tôi, đã qua tuổi 83, sức nhớ đã lẩm cẩm, sức khỏe đã loạng quạng, không khéo mà mang theo xuống mồ thì nó phí của giời đi, nên mạo muội cứ viết ra đây để tùy những người có trách nhiệm cân nhắc xem cần bí mật đến đâu? Chứ về phía địch thì nó “toạc móng heo” từ đời tám hoánh rồi.
Câu chuyện sau đây nó liên quan đến Hiệp Định Geneve năm 1954về đình chiến ở 3 nước Đông Dương, nằm ở điều khoản bổ xung và thay thế vũ khí ở mỗi bên.

Lệnh của Bộ: “Phải bảo đảm cho vườn cây được xanh tốt!”… Chỉ nguyên nội dung này đủ làm lính vỡ mật. Cả một vạt rừng dài hàng cây số, rộng vài trăm mét, được lính tạo nên bằng cách chặt cành cây tươi từ những khu rừng xa, kéo về xếp thành rừng, che kín những khí tài vật dụng quân sự mới đưa từ xa đến. Cành cây muốn luôn tươi tốt phải thay ngày ba lượt. Sức lao động của cả nhiều trung đoàn chỉ đủ cho một nhiệm vụ. Ngoài ra những loại xe cộ di chuyển  thành vệt thành đường cũng phải xóa hết dấu vết. Lính ta có sáng kiến, khiêng ngay hẳn một căn nhà đặt giữa lối đi thế là đường thành sân trước, vườn sau. Lính đóng ngay vai chủ nhà, thật tiện…
Tất cả chỉ vì cái anh chàng Canada trong Ủy hội Quốc Tế Giám Sát đình chiến cứ rẫy lên đòi kiểm tra nơi này nơi nọ vì nghe nói Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đang được ồ ạt đổ vũ khí vào. Nói thế không có nghĩa là ở phía nam không hề có chuyện ây? Thực ra cả hai phía đều phải tranh thủ làm cái việc cần thiết ấy, nhưng không bên nào muốn mình mang tiếng vi phạm Hiệp Định. Sự tăng viện cứ theo nhau tăng mãi cho đến khi bên này có B-52 thì phía bên kia phải có đến SAM2, MIG21. Như thế câu chuyện mới tâm đầu ý hợp.

Trở lại năm 1954, khi đơn vị chúng tôi về đứng chân ở Thạch Thất, chuẩn bị cho việc tiếp quản Hà Nội, thì có lệnh: Bàn giao Súng máy Phòng Không 12ly8 cho địa phương, chỉ giữ súng bộ binh và lên đường ngay nhận nhiệm vụ.
Bỏ Hà Nội lại phía sau lưng, chúng tôi theo đê sông Đáy, vượt sông Hồng sang Phúc Yên rồi theo chân Tam Đảo lên Thái Nguyên, men Sông Cầu vượt Bắc Kạn, qua Nà Phạc, rồi leo Col Lea sang Nguyên Bình, nơi đây đã là đất Cao Bằng. Nhiệm vụ hé dần sau từng ngày hành quân. Thế là chúng tôi bỏ nhiệm vụ tiếp quản Thủ Đô mà hành quân lên biên giới để tiếp nhận vũ khí phòng không thế hệ mới. Bắn bằng radar, liên động điện, cả trận địa một động tác rồi thì dựng màn đạn, bắn mà không cần nhìn thấy máy bay bằng mắt thường… chao ôi là mê ly!  Nhưng nhớ rằng, trước khi sờ được tay vào súng là việc phải dấu súng cho kỹ.

Ủy Ban Quốc Tế Đình Chiến gồm 3 anh Ấn Độ, Ba Lan và Ca Na Đa, phải hành quân bằng đường bộ theo lối Bắc Kạn – Bell’Air (Đèo Gió) qua Suối Tài Hồ Xìn. Cầu Tài Hồ Xìn đổ nghiêng xuống suối từ lâu, xe muốn sang Cao Bằng chỉ có 0000nước là lội qua suối.
Xe UBQT dừng ở phía nam suối. Anh Canada đề  nghị mọi người leo trên những thanh cầu gây trong luồng gió bắc thổi vù vù. Hai anh Ba Lan và Ấn Độ không chơi, anh Canada thích thì cứ leo.
Con suối đã được lính chúng tôi lội xuống dưới cái lạnh âm 5 độ C để moi đá cho sâu lòng suối. Làm suốt ngày đêm, 5 phút phải thay một tổ, nếu không muốn hóa đá. Tin tức báo cáo liên tục về Bộ Tổng, đầu dây đằng kia là Đại Tướng Tổng Tư Lệnh chỉ đạo.
Suốt một đời lính, cho đến tận bây giờ chưa có năm nào rét như thế, hơi thở ra bám vào râu, vào lông mày trắng như tuyết. Lá cây như bị lửa táp, chân tay nứt nẻ lại càng thấm thía với cái rát buốt.

Doanh trại tuy đã làm xong ở Nước Hai, nhưng tình hình này thì không thể yên ổn tổ chức chuyển binh chủng, nên phải tính kế chuyển sâu vào nội địa, thế là phải chuyển tất cả về Đại Từ Thái Nguyên. Hành quân đường dài hàng trăm cây số, trước sự săn lùng của UBQT phải hành quân bí mật, phải xóa bỏ dấu vết, biết bao nhiêu việc mà lính ta chưa hề làm bao giờ. Đại đội của tôi được đơn vị giao cho nhiệm vụ đi sau cùng, xóa bỏ mọi dấu, kể cả phá cầu cống, không để lại bất kỳ dấu vết nào trên đường.
Pháo 88mm do Liên Xô thu được nguyên cả dây chuyền sản xuất ở Tiệp Khắc, chưa kịp sử dụng, chuyển cả sang Việt Nam “thử pháo”. Loại này 8 bánh do xe xích Tholachi kéo, các khí tài 4B, 2B đều do ô tô kéo, Vết xích xe kéo trên đường hoặc bãi tập kết, đại đội tôi phải xóa hết dấu vết, thậm chí mượn cầy của dân để cầy xóa. Cả đại đội cào bãi, quét đường, nửa tháng sau mới về đến Vai Cầy thì đã sát Tết.
Cả hai cuộc tiếp quản, một về Thủ đô thì ồn ào sôi nổi, một đi tiếp quản vũ khí, thì âm thầm lặng lẽ, nhưng với quân đội, việc hoàn thành mọi nhiệm vụ đều có một giá trị tinh thần ngang nhau, không thể so sánh,..
Sau một năm, ngày đêm luyện rèn, đơn vị đã nắm vững vũ khí mới và được chuyển đi bảo vệ yếu địa. Đầu năm 1956, chung quanh những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Quảng Ninh,Thái Nguyên v.v… có những bãi pháo, người đi ngoài không biết những hoạt động bên trong của lính, chỉ sau ngày 5 tháng 8 năm 1964, những trận địa pháo mới công khai nổ súng bảo vệ thành phố. Một giấc mơ chiến đấu đã được công khai với mọi người. Chiến công đầu do những người lính “tiếp quản chậm” đã vang lừng bầu trời quê hương và thỏa lòng nhân dân yêu dấu.

Người lính rời khu vực doanh trại và pháo trường ra đi, để lại thung lũng Vai Cầy sau này thành thắng cảnh HỒ NÚI CỐC nổi tiếng.
Liệu có ai qua đây, còn thấy từ dưới lòng hồ vẳng lên tiếng hát của những chàng trai pháo thủ yêu đời thuở nào.

                                       Linhgia nguyên Khẩu Đội Trưởng


TÔI BIẾT GÌ VỀ CHÂN DUNG MỘT KẺ GIẾT NGƯỜI?

Kẻ giết người có một thân phận đầy mâu thuẫn, người ta hết lời lên án nó, nhưng cũng luôn vỗ béo nó để nó hoạt động.
Nó là Điếu thuốc lá!
Mỗi người có một trường hợp, một hoàn cảnh đến với điếu thuốc lá, không ai giống ai. Vì vậy ở đây tôi chỉ nói về trường hợp của tôi.

Cuối những năm ba mươi (thế kỷ trước), ở một tỉnh lẻ, đó là tỉnh Ninh Bình, ông bố tôi có một quyết định quan trọng là bỏ thuốc lào. Điếu ống, điếu bát trong nhà đều xếp xó hết. Bước đầu ông thay thế thuốc lào bằng thuốc lá. Bao thuốc Poupon có những 50 điếu, nhỏ như cái đầu đũa nhỏ. Một lần tôi thử hút, liền bị sặc khói, cổ họng đắng nghét. Chừa luôn! Vào những dịp lễ tết, trong nhà còn thấy những bao thuốc lạ, Camel hay Lucky Strike là quà biếu. Chắc cũng không khác gì Poupon, nên cũng không thèm. Sau này bố tôi còn đổi sang Job hay Bastos, có khi cả Mélia hay Esquire... nhưng gì cũng không lung lạc được tôi, không chơi là không chơi!
Cho đến một hôm, những ông thày dòng trường Lý Đoán dưới Phát Diệm lên chơi có đem biếu một hộp Cigare do nhà dòng sản xuất. Quà để xin bố tôi cho tôi vào học ở trường dòng. Bố tôi từ chối vì tôi đã được bán khoán cho Chùa Hương, đã chót theo Phật nên không thể theo Chúa. Bước ngoặt đầu đời mà tôi đã bỏ qua, nếu không sau này tôi đã có thể thành một frère thậm chí một père hết lòng phụng sự Chúa và biết đâu chẳng đã bị xử lý... Âu cũng là cái số!
Hộp cigare cứ để đó cho đến một hôm, cái điếu thuốc mầu đen nó kích thích sự tò mò của tôi, vì ngứa mắt nên tôi đã đốt thử. Lần này thì thảm hại hơn nhiều, tôi say lử và khó thở cho đến hôm sau. Biết mặt!

Sáu năm sau, năm 1945 khi đã làm thợ sắp chữ cho nhà in Quang Hoa thì vì đua đòi nên ra vào phì phèo điếu thuốc đã thành quen. Những năm đó chúng tôi mỗi lần phát hiện thị trường có loại thuốc lạ, đều báo cho nhau nếm thử. Nhiều lắm, phong phú lắm, nhưng bây giờ chỉ ấn tượng với vài thứ. Thuốc Ruby Queen có 10 điếu nhưng kèm theo có bức tranh trong tích Nhị thập tứ hiếu của Tàu. Macédoine với điếu thuốc cuốn rất lỏng chưa chi đã bẹp dí, nhưng có mùi hương rất lạ. Ai đó hút trong một căn phòng đóng kín thì người ngoài ghé mũi vào lỗ khóa cứ tưởng trong phòng có người đang đi mây về gió với Ả phù dung. Cuối cùng là “tên “sát nhân” Philip Morris. Thứ thuốc mà nhà Xuất bản Âm nhạc Đan Thanh thường mang đến kèm theo với két bia và phong kẹo lạc để đút lót chúng tôi (nhà in Minh Tân), khi muốn sớm nhận được ấn phẩm để phát hành, trong lúc tình hình chiến sự có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Thuốc lá hãm với bia và kẹo lạc đã cho tôi một trận say điên đảo, nhớ đến bây giờ. Loại thuốc lá này tôi đã mang theo người vào một đêm đông năm 1946, đêm rời Hà Nội ra đi.

Trong kháng chiến chống Pháp thi thoảng tôi vẫn gặp lại tên sát thủ Philip ấy, mỗi khi có người từ chi điếm Đống Năm mang về làm quà. Thời gian đó những loại thuốc lá như Zuk (du kích) Bazooka, Cẩm Lệ do kháng chiến sản xuất tràn lan thị trường, nhưng mỗi khi thấy cái mầu nâu hạt dẻ của bao thuốc Philip thường gây nôn nao trong người. Lúc này tôi dang là kế toán trưởng của một ngành trong Nam Hưng Công Ty (Ban Kinh Tài Liên Khu Ủy ba) Năm 1948 tôi mới mười bẩy tuổi, nhưng đã được ông phó Bí Thư thông báo: “Hội đã đặc cách xét kết nạp đồng chí vào Hội!”... Tôi cảm ơn ông và xin phép cho tôi còn suy nghĩ. Từ bước ngoặt đầu đời không đi theo  Chúa đây là bước ngoặt thứ hai, tôi vẫn lại chưa sẵn sàng đi theo Đảng. Người sớm phát hiện ra tính cách của tôi có thể là mấy anh Thày Dòng.
Đời tôi còn nhiều bước ngoặt mà xem ra bước nào cũng đầy tính bi hài. Dù ở đâu và làm gì, tôi vẫn gắn liền với tên sát thủ đầy tính bi hài như tôi.
Năm 1950 đang là cán sự 5 phòng Tài Chính Ủy Ban Hành Chính Kháng Chiến Khu đặc biệt Hà Nội, tôi xin chuyển sang Tư Lệnh Ba. Chiến sự đang lan rộng nên tôi không thể tìm thấy Tư Lệnh ba mà theo lời khuyên của một anh chính trị viên tiểu đoàn là bộ đội thì ở đâu cũng vẫn là bộ đội, nên tôi đầu quân vào tiểu đoàn Nguyễn Huệ Trung Doàn Ký Con. Quên đi cái điều ở đây không cần cán bộ tài chính như Tư Lệnh Ba nên tôi bỗng trở thành anh binh nhì, bỏ đi đến 7 bậc thang lương, được một bao thuốc lá Quân Nhân Đường 12. Thường xuyên là thuốc rời cuốn với giấy pelure, truyền tay nhau đến bỏng rát. Lâu lâu qua phố chợ, qua thị trấn vẫn có điếu Củi tạ (Cotab) mà đồn rằng sợi của nó là giấy. Kệ nó, vẫn thơm. Thuốc lá vẫn đến với lính lúc phong lưu, khi đói rách, nào có sá gì. Cái hương của anh Cotab rất dễ đánh hơi, có điếu thuốc, đố hút trộm được. Lính sáng kiến đục nhiều lỗ ở đáy cái hộp Aspirine, để che lửa khi hút, nhưng còn khói nó tỏa ra? chỉ cần đi dọc lán là biết khói tỏa ra từ cái màn nào. Thủ phạm đành ngoan ngoãn chìa ra mỗi đứa một hơi. Đời lính không chỉ một lần truyền tay nhau điếu thuốc, rít đến hơi cuối cùng trước khi ôm súng vào trận đánh.

Khói thuốc lá gây nên nỗi hưng phấn tức thì và gây nên cái chết tiềm tàng như bệnh ung thư thì ai cũng đã biết, nhưng nó gây nên những cái chết ngay lập tức, thì không phải ai cũng biết. Muốn tường tận xin cứ tìm đến những ông bà du kích trong cả hai thời kháng chiến. Khói thuốc lá vô tình đã báo cho đối phương biết sự có mặt và nơi ẩn náu rất cần bí mật của lực lượng phục kích.

Khi về Ban 1 Phòng Tham Mưu Đại đoàn 304, thi thoảng còn được hút thuốc của tư lệnh Hoàng Minh Thảo. Năm 1953, sau trận tiêu diệt đồn Noọng Hét (Thượng Lào) Trung Đoàn 66 lấy được một thùng Coolicut đem biếu tư lệnh Đại Đoàn. Anh Thảo biết lính của mình hút thuốc nên khi qua lán đã cho 1 hộp. Lâu lâu anh hỏi còn thuốc không? thì dù còn, tôi cũng báo cáo hết để anh cho thêm. Thứ thuốc này đựng trong hộp sắt, được hút chân không nên khi mở thường phát ra tiếng xì. Thuốc được nén thành cục cứng như gỗ, phải bửa ra và vò thành sợi. Giấy sẵn ngay trong hộp, một phía có quết hồ, chỉ liếm nước bọt là có thể quấn thành điếu thuốc ngon lành. Thuốc sống thì có mùi nho khô còn hút lên thì khỏi phải chê.
Cuối năm 1953 đi Trần Đình, được tiếp súc với lính 367 nên đã biết mùi vị Đại Tiền Môn, Trung Hoa Bài. Năm 1955 Cao Vân Xanh đã bỏ một điếu Đại Tiền Môn vào phong thư binh sĩ gửi cho tôi với câu: “Tiền Môn một điếu thơm lừng, nhớ về một thuở lán rừng ngát hương”, đó là kỷ niệm một thời Đèo Chẹn, Cò Nòi, với cuộc chiến đấu có thể chấm dứt từng ngày. Hút một điếu thuốc để nhớ nhau. Ôi cuộc đời!

Sau Điện Biên Phủ, về lại Đồng Bằng, trận địa của tôi ở gần Tía, sát vùng địch chiếm, nên cần thứ gì dân vẫn có thể mua giúp. Khi đó có thứ thuốc Grand Prix cùng hãng Mic với Cotab nhưng hút đậm hơn nhiều. Tiền rủng rẻng vì đi chiến dịch không tiêu gì, nên bây giờ trong hầm tôi vẫn có hàng tút thuốc, mặn này bõ nhạt ngày xưa. So với anh Gaulois thì hơn xa, Grand Prix chỉ có trong hộp Rations Cinq (tiêu chuẩn cho 5 sĩ quan quân đội Pháp).

Cuối năm 1954, tôi được cử đi dự Hội Diễn Văn Nghệ Toàn Quân ở Thủ Đô. Về đến Hà Nội thì bố đã mất, mẹ và ba em gái đã bỏ đi Nam...Khi quay về Cao Bằng tôi làm quà cho anh em một cân kẹo Nougat mua ở Hàng Bông và một bao thuốc lá đầy duyên nợ là cái anh Philip Morris. Vừa đặt chân đến đơn vị là bị lột sạch ngay, còn bị phát hiện là dùng nước hoa. Cái thứ nước Ce que femme veut (thứ mà đàn bà thích) tôi đã cẩn thận xịt trong slip mà vẫn bị mấy anh công nông phát hiện để lên án mình là “Tạch tạch sè”.

Giữa thế kỷ 20, thế giới ngày càng xuất hiện nhiều loại thuốc lá có đầu lọc, được dân chơi gọi là “thuốc có cán”. Thứ thuốc cigare to bằng ngón tay cái hầu như là sản phẩm dành cho chính khách hoặc đại gia.  Năm 1939 tờ Ngày Nay có bài châm biếm: Một anh Xã Việt điTây, chụp ảnh ngậm điếu xì gà gửi về cho vợ. Vợ cầm bức ảnh và òa khóc: “ Trời ơi! không biết chồng tôi ăn nói thế nào mà bị người ta đóng nõ vào mồm”. Thật là cười ra nước mắt.

Hòa bình lập lại, phe ta ào ạt viện trợ, tôi nhớ nhất bao thuốc Bérati hàng viện trợ của Albanie, gout Turque nên hút cứ ngai ngái, không giống ai, nhưng vẫn trân trọng vì đây là quà của cô bạn gái nhỏ bé mua cho. Thời đó thuốc Trung Quốc, ngoài Đại Tiền Môn, Trung Hoa Bài, còn Trùng Cửu, Song Hỉ v.v...
Từ1955 đến 1975 ở Hà Nội có một khu gọi là Cao Xà Lá gồm ba nhà máy Cao Xu, Xà Phòng, Thuốc Lá. Riêng anh thuốc lá thì phát triển búa xua: Bông Lúa, Trường Sơn, Tam Đảo, Hoàn Kiếm, Điện Biên, Xuân Mới, Thủ Đô, Thăng Long. Các thứ này lại chia ra loại có bao bạc, loại không, dành cho từng loại miệng cóc hay chuột chù, ngậm trùn hay hút khói (bao cấp mà) Thế mà vẫn có anh không đủ tiền hút thuốc lá, đành quay lại thuốc lào, nên có khẩu hiệu: “Xa Điện Biên, rời Tam Đảo, vượt Trường Sơn sang Lào”. Hầu hết các loại thuốc lá của Việt Nam đều chung một dòng hương liệu nhập từ Trung Quốc. Sau này lại thêm nhà máy Sông Cầu với Tam Thanh, Nhị Thanh, Chim D’rao và nhà máy Thanh Hóa với Du Lịch. Thuốc lá Thăng Long còn được nâng cấp với hộp nhôm dẹp 20 điếu và hộp sắt tròn 50 điếu. Kể ra thế để biết cái anh sát nhân này nó được o bế, vỗ béo ra sao? Sau này thuốc lá Việt Nam đều chung một công ty mẹ là Vinataba. Mới đây còn nghe ông Thủ Tướng nước ta định ký kết hợp tác với anh Bulgataba để cùng với Vinataba đóng góp cho cái nguyên nhân gây ung thư toàn thế giới.

Năm 1973 đi thực tập (học lỏm) ở Cộng Hòa Dân Chủ Đức, lần đầu tiên nhận phụ cấp tôi đã mua một bao Duette giá 6 Mác (bằng giá 200 nan hoa xe đạp). Cô bạn Đức đá mé: Liệu thời gian ở đây anh hút hết mấy bao này? Đây là thứ thuốc cao cấp của Đông Đức hơn cả Kent của Tây Đức. Quả nhiên sau này chỉ thường xuyên dùng Ép Dếch (F6) hay Klub.

Năm 1975 vào tiếp quản Sài Gòn, khi đó mới “kiến kỳ hình” cái anh nhà máy Mic, lò đào tạo sát thủ các loại mà trước nay chỉ mới “văn kỳ thanh”. Mic, Job, Bastos, Mélia, Cotab, Grand Prix v.v... đều đã từng từ đó mà ra. Sài Gòn lúc này càng đầy rẫy những thuốc lá ngoại nhập, tôi chỉ kể cái thứ tôi quen dùng: Ruby Quân Tiếp Vụ, Capstan (cho anh phát súng tim anh nát). Rồi A Lào, rồi Số Một (Number One) Đặc biệt có cái mầu của anh Dunhill, được gọi là “Đỏ Đun” để chỉ mầu sơn loại xe đạp Peugeot mới nhập.

Ở Hà Nội cần loại thuốc hiếm nào cứ lên Ngõ Gạch. Sài Gòn cũng có một phố như thế nhưng cũng chỉ bán ở vỉa hè, dễ lưu động, cái gì không có ở đây thì sẽ cho người đi lấy. Cái thứ Héros và Zesst thấy từ hồi đó, nay đã trở thành món hàng lậu cộm cán. Cái anh 555 và Craven A (Mèo đen) đã được nội địa hóa. Anh Khatoco Khánh Hòa góp thêm White Horse vào mục đích gây ung thư. Miền Bắc có thuốc Bông Lúa thì miền Nam có Đà Lạt nặng và khét nổi tiếng, chỉ một số dân Tây Nguyên là khoái.
Sau này khi đã hạn chế hút vì huyết áp, vào dịp Tết, con cái cho bao thuốc Sobranie, hay bao Black Mild hút cho thơm râu. Thứ thuốc thơm mùi bánh kẹo, nịnh người ngửi chứ không nịnh người hút. Năm nay con trai cho bố bao Bodéga (Cigarette của Đức) hút chơi vài điếu rồi gửi lại cho con tiếp bạn.

Về cuối đời, hơn 70 năm tự nguyện cho sát thủ làm thịt, tôi hút Era do một người bạn giới thiệu vì nó ngon mà lại rẻ, chỉ 3 nghìn một bao. Khi ông trẻ tôi từ Pháp về chơi, tôi mời cụ hút, cụ khen ngon. Khi cụ trở lại Pháp tôi biếu cụ một tút, nghe đâu các cụ tây cụ đầm vùng Alsace đều khen ngon và đều xin thêm để dành, mặc cho ai đó luôn miệng rằng:
-          Thuốc lá là thuốc độc!
Dù ai nói ngả nói nghiêng thế nào về thuốc lá, thì người lính cao xạ pháo Đoàn 361 năm xưa vẫn bồi hồi nghĩ tới lúc nhận điếu thuốc từ tay Bác Hồ trao cho ngay bên mâm pháo. Điếu thuốc vừa là quà tặng khen thưởng của Bác, vừa là điếu thuốc Bác mời để bác cháu ta cùng ăn mừng chiến thắng.

Nhìn bao thuốc lá với những dòng chữ in gần kín cả hai mặt, nào là Hút thuốc là có hại cho sức khỏe, Thuốc lá là nguyên nhân gây ra bệnh ung thư... Mọi người có thấy nó giống cái gì không? Giống một lũ phạm nhân ôm cái bảng ghi rõ tội trạng trước ngực nhưng không bị bỏ tù mà được thả rông khắp kẻ chợ cùng quê.
Không biết từ bao giờ lại nảy ra cái tục đốt điếu thuốc rồi cắm lên bát hương. Như thế là điếu thuốc không chỉ đeo đẳng suốt cả đời người mà còn theo cả người chết sang thế giới bên kia. Cái kết luận thuốc lá gây ra bệnh ung thư, cho đến bây giờ thiên hạ vẫn bán tín bán nghi. Xem ra nó cũng giống “IS”, khó mà tận diệt.
                                                                                                                                                                                                                                                                             

  CHUYẾN ĐI ĐẶC BIỆT 40 NĂM TRƯỚC

Để chuẩn bị cho việc tiếp quản “đài Sài Gòn”, chúng tôi đã có đoàn thứ nhất (đoàn nhẹ) do ông Huỳnh Văn Tiểng làm trưởng đoàn, ông Đặng Trung Hiếu và một số cán bộ khung, một số phóng viên… Đoàn lên đường vào giữa tháng 4 năm 1975. Đoàn chúng tôi (đoàn nặng) gồm thành phần kỹ thuật đủ kiện toàn cho đoàn đi trước. 40 năm đã qua, làm sao nhớ hết được, cố vận dụng bộ não cũng chỉ nhớ loáng thoáng những khuôn mặt trên chiếc xe PAZ. Hầu hết là anh chị em “tập kết” kèm theo vợ chồng của họ. Dân Bắc gồm có 2 lái xe (Hải và một người nữa, hình như Điền thì phải?) Hữu Liên (Cameraman) Ái Vân (nữ ca sĩ) xin ở trường nhạc về bổ xung cho đội ngũ Phát thanh viên, Cương râu, bác sĩ Yến biên tập viên và tôi, Nam Hà đạo diễn văn nghệ. Các anh Sáu Điểm, Sáu Khải, Tấn Mầu, chuyên viên kỹ thuật, các chị Thêm, Loan, Năm kỹ thuật viên âm thanh, Các chị Lan Hương và Kiều Oanh phát thanh viên, Ngô Phụng Ánh, biên tập viên v.v.. có cháu Quang con anh Đặng Trung Hiếu nữa. Không biết còn những ai mà cái đầu già (84) của tôi nhớ không nổi.Xe do anh Lê Võ chỉ huy.
Đoàn viên được trang bị ballot, tăng võng, mũ tai bèo, mì chính, ruốc thịt, đồ hộp Hạ Long, một số thuốc thông thường và một đèn piles. Đoàn không được trang bị vũ khí, nhưng tôi thì có hai khẩu súng ngắn, 1 khẩu Colt của phi công Mỹ bắn đạn 9mm cỡ dài, chiến lợi phẩm do một đơn vị tặng khi tôi còn ở Văn công Quân đội, một khẩu K59 do Nguyễn Thành đưa cho với hơn chục viên đạn.
Xe rời Hà Nội vào lúc 9 giờ sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975. Địa điểm xuất phát là trước số nhà 45 Bà Triệu. Vỉa hè nơi đưa tiễn cũng lốm đốm lệ rơi, những giọt nước mắt khi kẻ ở người đi.
Hành trình khá khẩn trương vì tình hình chiến sự biến đổi từng phút, từng giờ. Lộ trình bám sát đường Một cho đến khi phải rẽ lên đường Trường Sơn. Hai lái xe thay phiên nhau, giờ nghỉ chỉ là tối thiểu, thật cần thiết mới phải nghỉ. Đêm đầu tiên nghỉ ở Hà Tĩnh, 4 giờ sáng xe đã nổ máy lên đường. Khoảng 11 giờ trưa, giữa phà Sông Gianh nghe tin đài báo Dương Văn Minh đã đầu hàng, thật ý nghĩa khi đứng giữa con sông chia cắt một thời mà nghe tin đất nước liền một dải, lúc đó chỉ ước ao có đôi cánh để bay thẳng ngay vào Sài Gòn. Tuy thế lộ trình cũng đã thay đổi về cơ bản, hành quân thẳng đường một. Xe qua cầu Bến Hải vào lúc nhập nhoạng tối, thị trấn Hồ Xá một thời sôi nổi ồn ào với các đoàn ra vào tham quan giới tuyến, nay tiêu điều vắng vẻ, dấu tích bom đạn khắp nơi, xe phải bò từ từ trên con đường còn lỗ chỗ vết đạn pháo, cũng phải đến 10 giờ đêm mới tới Đài Huế. Ở đây anh em ta đã tiếp quản. Lúc này ăn cái gì cũng thấy ngon, ăn vội ăn vàng rồi lăn ra sàn mà ngủ, 3 giờ sáng đã đánh thức nhau dậy lên đường. Hôm nay là 1 tháng 5 rồi. Dọc đường vào Đà Nẵng đã thấy nhiều khác lạ, quân trang, quân dụng, đồ lề của dân của lính vứt rải rác suốt lối đi, lần đầu tiên dân miền Bắc thấy cái rổ cái rá bằng nhôm. Xe qua Hải Vân vào Đà Nẵng vẫn không giảm tốc độ, chạy nuốt đường, tối đó đến Quy Nhơn mới nghỉ lại. Lúc này Hoàng Minh Phương đã tiếp quản và làm giám đốc đài Quy Nhơn. Dù cho giám đốc rất ân cần cũng xin cảm tạ để tranh thủ nghỉ, đường còn dài.
5 giờ sáng ngày 2 tháng 5 xe đã lại nổ máy bon trên con đường thiên lý. Qua Nha Trang cũng không có thì giờ ngắm cảnh, vượt Cam Ranh cũng không biết rằng ở nơi đó đang có mẹ và các em gái, đã xa nhau hơn hai chục năm ròng. Dọc đường đã gặp những cây cầu hỏng, lối đi mới mở vòng xuống suối. Xe cộ trên đường, cái chạy ra, cái chạy vào, lác đác những chiếc xe mà đồ đạc lẫn với người chất đầy trên nóc và đeo bám khắp xung quanh. Chắc chắn trong số đó có những người lính cộng hòa mới buông súng trước đây ít phút. Cảm giác “đối phương” còn lẩn quất đâu đây, gần thật gần. Trong đầu đôi lúc cũng thoáng qua hình ảnh phục kích ven đường, một tràng súng máy, một quả bazoka vụt ra… thì thế nào nhỉ? Thế nào thì xe cũng vẫn không giảm tốc độ.
Đêm 2 tháng 5 ngủ dã chiến tại một trường học ở Phan Rang. Những chiếc ghế dài, những chiếc bàn học kê sát lại. Điện không có, leo lét ánh đèn dầu.
Sáng 3 tháng 5 rời Phan Rang vào Phan Thiết. Nghỉ ăn trưa tại Phan Thiết rồi lại tiến vào con đường ngổn ngang chiến cụ, vật dụng chiến tranh, vòng qua Biên Hòa để vào Sài Gòn. Vào đến địa phận Sài Gòn đã chạm trán các loại xe cộ chen nhau chạy tới chạy lui, những chiếc xe mà ống sả vắt lên trời phun khói thành dòng như rồng lượn, tiếng nổ rộ lên như những tràng súng liên thanh tóe ra hai bên phố đông nghịt người. Vào đến Sài Gòn thì mọi niềm tự hào về chiếc Karosa do Tiệp Khắc sản xuất đều đã bị những chiếc xe siêu trường siêu trọng ở đây đè bẹp dí.
Đèn xanh, đèn đỏ ở các ngã tư đường vẫn hoạt động đều đặn. Tới tận 17 giờ xe chúng tôi mới lách được đến đường Hồng Thập Tự, tiến vào cái cổng số 9, mà ở đó đã có những anh em của mũi đi trước đang canh giữ. Họ đã vào đây ngay chiều 30 tháng 4. Cùng một nhiệm vụ nhưng mũi trước mũi sau đã không đến được cùng một lúc, vì nhiều lẽ, nhưng chẳng có lẽ nào mà mũi một mới là đi tiếp quản còn mũi hai chỉ là dây máu ăn phần như sau này có những đầu óc thiển cận từng suy nghĩ.
Lực lượng bổ xung được chi viện cho cả Sài Gòn lẫn Cần Thơ. Lê Võ cùng chị Loan, chị Năm, Kiều Oanh đi Cần Thơ. Theo dự kiến đi Cần Thơ còn có Lâm Mộc Khôn, nhưng vì lý do nào đấy Khôn đã cố ở lại Sài Gòn ngồi vào cái vị trí đã định của tôi? Phải chăng vì thế mà sau này gây cho tôi nhiều rắc rối để cuối cùng tôi phải xin với ông Trần Lâm để quay về Bắc? Có chăng chỉ là suy diễn? nếu thế tôi sẵn sàng tạ lỗi cùng vong linh người đã khuất.
Đi chuyến này, ngoài nhiệm vụ công tôi còn một số nhiệm vụ tư cũng ít nhiều quan trọng.
Tôi phải chuyển thư của bà Ái cho bà Phương (cô họ tôi), liên lạc với vợ chồng anh Bình chị Nhật con cụ Phùng Như Thăng (bố vợ tôi sau này) Thư và ảnh của Tô Hải gửi gia đình, chuyển thư của Nguyễn Thành gửi ông cậu ruột, chuyển thư của Văn An cho ông anh cả ở ngành Bưu điện, tìm bố đẻ cho Bùi Tòng, chuyển lá thư của cô Tuyết gửi cho mẹ em Tú và nhất là tìm lại gia đình mà tôi đã thất lạc từ năm 1948. gồm Mẹ và các em Trâm, Chi, Bút.
Cả một núi công việc mang sứ mệnh cao cả mà chỉ trong 1 tuần lễ tôi đã hoàn tất, và còn hơn thế nữa, cũng chỉ vì cách quản lý xã hội của cái chế độ cũ ở đây nó đơn giản và hiệu quả mà thôi.

Đó là hình ảnh của chiếc xe và những con người dân sự đầu tiên, chở đầy băng nhạc và phim ảnh, từ Thủ Đô Hà Nội tiến thẳng vào vùng mới giải phóng. Chiếc xe PAZ do Liên xô chế tạo, sơn hai mầu trắng vàng và dòng chữ bên hông :
TIẾNG NÓI VIỆT NAM.
                                                     


SUY NGHĨ NGẮN
VỀ CHIẾC ÁO DÀI VIỆT NAM

Tôi không phải là nhà nghiên cứu, càng không phải là nhà tạo mẫu, vì vây nói là suy nghĩ, cũng chỉ là nằm dài nghĩ quẩn trong cái oi bức của mùa hè.

Trước tiên xin nói là chiếc áo dài bắt nguồn từ chiếc áo ngắn. Chiếc áo năm thân hay áo tứ thân chỉ vì cái khung cửi ngày xưa nó chỉ cho ra khổ vải vừa bằng một bên thân áo. Cái khổ vải hẹp đến nỗi khi may quần phải táp thêm miếng vải, nên gọi là quần chân què. Tại sao ống quần lại rộng? Vì đàn ông cũng như đàn bà ta khi cần... cũng chỉ vạch quần là xong. Nó không cần cả dẫy khuy dưới đũng như quần tây.
Nói chiếc áo dài bắt nguồn từ chiếc áo ngắn vì nó chính là chiếc áo cánh vai liền, các cụ nhà ta đã bỏ đi hai cái túi và kéo dài cả vạt trước lẫn vạt sau. Thần tình ở chỗ các cụ bỏ luôn cả dẫy khuy, chỗ hở ra được “đậy” bằng một chiếc yếm (may mà các cụ không dở hơi như lũ con cháu sau này?) rồi sáng kiến bắt chéo hai vạt, thắt lưng bỏ múi như một cái nơ, kết hợp với mớ thắt lưng nhiễu đủ mầu,  vừa hấp dẫn vừa kín đáo cả khi đi khi đứng. Lẳng lơ nhất các cụ khi các cụ chế ra cái vai đổi “áo đổi vai” làm cái áo trữ tình hẳn lên mà vẫn đậm nét truyền thống.

Áo dài (dài thân, dài tay) là áo nhà giàu vì vậy mới có lớp người được gọi là “dân áo ngắn”, dân nghèo. Áo dài cần cho đàn bà vì nó kín đáo, nó tha thướt. Áo dài của đàn ông để thêm oai nghiêm. trang trọng. Áo dài của đàn ông thường được may năm thân, với cái vạt con bên ngực phải làm chỗ đính khuy. Áo của đàn ông xưa thì ngắn đến trên đầu gối, có thể buông xõa hay có thắt lưng ngang sườn, bằng vải mộc hay nái (lụa thô) với hai mầu là thâm (đen) hay nâu, các hương chức, lý dịch thường mặc khi có công vụ. Sang hơn là loại áo dài 5 thân (bốn vạt cả, một vạt con) dài đến dưới đầu gối, thường mặc với quần ống sớ, phổ biến là quần vải chúc bâu mầu trắng. Áo dài có cổ đứng và được may bằng the, sa, nhiễu, đoạn, hay gấm, khuy xương hay khuy đồng hoặc mã não và thường được lót bên trong bằng chiếc áo dài mầu trắng. Đây là y phục của quan lại, nhà giàu. Cũng là y phục của nho sinh Cửa Khổng Sân Trình, và cũng là y phục không bắt buộc ở trường công lập.

Chiếc áo dài của nam giới ít thay đổi so với áo dài của nữ, đổi luôn xoành xoạch mà cũng chẳng tôn được cái đẹp cái quý lên là mấy.
Nào là áo dài tay ngắn, tay rộng, tay bó, thậm chí không có tay. Cổ cao cổ thấp, thậm chí không cổ, có loại được  cài mắc lên người chỉ bằng hai sợi giây như chiếc “Rốp”... Từ thời ông “Le Mur” (Ô.Tường), ông này có sáng kiến ngược, may liền hai cái vạt áo trước của các cụ thành một vạt, các bà các cô đã gọi cái áo đó là áo “Lơ Muya”.
Từ ông Tường đến bà Minh Hạnh đều là những nhà cải cách vào hạng “to đầu”, đến các nhà cải cách hạng choai choai ra sức phá phách đến tươm cả cái truyền thống ra mà vẫn chưa thật thuyết phục. Gần đây có một nhà sáng chế, biến cái áo tứ thân thành những mảng màu trên thân trước tấm áo dài. Cũng chưa đi đến đâu? và cũng không thay thế được bộ y phuc truyền thống “Mớ ba mớ bẩy” của các dì các mợ ngày xưa.
Thời nước nhà chưa thống nhất, trong Nam có bà Trần Lệ Xuân, bà này xẻ cái cổ áo dài thành hình thuyền. Người hưởng ứng cũng lắm mà kẻ chê bai cũng nhiều. Cũng vì bà là vợ ông cố vấn, mệnh phụ phu nhân nên không được “xếch xy”. Báo chí miền Bắc cũng phê phán mổ xẻ. Thật oan cho bà cố vấn và cái sự cải cách của bà. Cứ như hiện nay, ngày hôm qua thứ ba 23 tháng 6 năm 2015, trong một chương trình ca nhạc của kênh QPVN đưa lên hình ảnh một nữ ca sĩ với chiếc áo dài xẻ cổ từ vai đến ức hở cả cái “hẻm...dzú” ra thì sự cải cách của bà cố vấn chỉ là “hạng bét”.
Ngày xưa, đẹp nhất là những tấm áo dài lụa hàng vân với các họa tiết và mầu sắc nhã nhặn, chỉ hở ra một chút bên hông từ cạp quần đến khe áo xẻ đã làm mê mẩn mấy ông tây hội họa. Phàm cái nửa kín nửa hở càng kích thích sự tò mò và làm giàu thêm óc tưởng tượng.

Ngày nay tôi vẫn ủng hộ các họa tiết trên thân áo chỉ vừa vặn tôn cái thân áo lên chứ đừng biến thiếu nữ thành cái cột để rồng leo, đừng mang những bức họa với họa tiết nặng nề làm biến dạng cả tấm thân thon thả của người mặc áo.

Đá nói là vài ý kiến ngắn... Thì đến đây nên thôi là phải!


















































































































































































Thứ Ba, 11 tháng 8, 2015


                   Phiếm ngôn

Trước tiên phải nói: Đây không phải là phát ngôn của chính phủ, càng không phải là tuyên bố của đảng, mà chỉ là lời bàn của một anh dân quèn, một phó thường dân Ố Nàm chính hiệu, bàn về một thời sự vừa xẩy ra tại đại quốc Trung Hoa cực kỳ vĩ đại. Một sự kiện còn nóng hôi hổi mà cả thế giới cùng quan tâm, nhưng chưa chắc ai đã hiểu thấu nội tình của nó. Đó là chuyện chìm tầu trên sông Trường Giang, con sông không những đã trường (dài) mà còn rất thâm (sâu) nữa là đằng khác.

Câu chuyện bắt đầu từ một bản tin được nhà nước Trung Hoa thông báo về con tầu du lịch Ngôi Sao Phương Đông chở gần 500 người bị chìm trên sông vào một đêm đầu tháng 6 năm 2015. Tin tức đầu tiên là gần chục người được cứu sống, cũng chừng ấy được coi là đã chết, còn khoảng hơn 400 người được mang danh “mất tích”, có nghĩa là những người này có thể ở dưới đáy sông, cũng có thể đã lội lên bờ và hiện còn ẩn núp đâu đó mà chưa báo cho nhà chức trách biết.
Tình hình thì úp mở, còn con tầu thì rứt khoát úp kín. Lực lượng cứu trợ gồm quân và dân huy động cả ngàn người, phương tiện đủ loại, nhưng  con tầu nằm sấp vẫn nhất định chưa được lật ngửa lên, đã thế lại còn sáng kiến khóet một lỗ hổng ở bụng tầu, thế là còn chút không khí nào trong con tầu chìm, phì ra bằng hết, đảm bảo cho cái sự ngoẻo phải được triệt để.
Sự việc được ngâm kỹ cho đến ngày 13 tháng sáu năm 2015 nhà nước mới chính thức thông báo là con số đuối nưóc trước sau, bao gồm cả số mất tích là 442 nhân mạng.
Thật là thảm thiết! Tai nạn do máy bay rơi không thể đạt tới con số ấy. Chết do súng đạn thì dù bắn mỏi tay cũng không đến ngần ấy nhân mạng, chỉ có dìm đi một con tầu bằng cách lật úp xuống thì mới gọn ghẽ đến thế.

Những con người xấu số đó là ai?
Theo nguồn tin chính thống là những người cao tuổi đi du lịch.
Đi du lịch tự nguyện hay bị lãnh đạo lừa ban cho một chuyến du lịch dối già rồi lùa lên tầu vì không đồng quan điểm với đảng, hay không tán thành chính kiến với đảng về Biển Đông nên bị đảng xử lý như đã từng ra tay ở Thiên An Môn?

Vui mừng đón lộc vua ban nên chết thảm?
Khác với thời xưa, dân còn có thể tin vào vua, vì vua thời phong kiến là vua thật. còn thời nay, vua là vua đểu, nên cái gì cũng có thể xẩy ra. Là dân, ngay cả dân ngu khu đen cũng cứ liệu cái thần hồn!...
Đến đây, Tiểu dân xin tận ngôn.

                                                     


ĐỆ TAM KHOÁI
                           
Đáp lại nhiều câu hỏi của bạn bè, tôi xin tóm tắt lại mấy ý sau đây:
Linh gia này vẫn khỏe nhưng không mạnh, chống gậy đi được vài trăm mét nhưng mệt. Đến bữa, thức ăn nhiều hay ít cũng chỉ 2 lưng bát. Các loại thuốc tiểu đường, huyết áp ngày vẫn 2 lần, đo đạc mãi cũng chán vì không thấy chuyển biến gì, thôi, không đo nữa. Tự lắng nghe cơ thể mà sinh hoạt. Một lao động bắt buộc là động não, không cho não được lười biếng, vì cái hoạt động này mà nghỉ nốt thì … chấm hết!  Phương châm là kiên trì bền bỉ. Có một cái tên mà có khi nghĩ đến cả tuần lễ không ra, nhưng vẫn cố đào bới đến phọt ra mới thôi. Ngoài ra dành toàn bộ thời gian cho “Thế giới động vật” (bao gồm cả loài 4 chân và loài 2 chân, loài có vú và loài đẻ ra trứng…) Với cái đầu óc khoa học thô thiển của tôi, tôi chia động vật ra hai loài: Loài giao phối che đậy và loài giao phối phơi bầy. Loài phơi bầy là loài coi cái việc giao phối nó tự nhiên như cần phải ăn phải thở. Loài kia với những ý nghĩ phức tạp tự thân và những ràng buộc của xã hội đồng loại, nên dần dà làm mất cái tính tự nhiên nguyên thủy và thêm vào đấy những lề lối, những giao tiếp hình thức, biến cái vốn tự nhiên thành cái không tự nhiên, và rồi người ta quen dần.
Đề cập tới vấn đề này, tôi cũng không dùng thủ pháp lột trần ngôn từ, mà vẫn khoác áo cho ngôn từ, nhưng không làm sai lệch nguồn gốc của sự việc.

Trước đây tôi đã có một ký sự nói đến một vấn đề khó nói, đó là cái khoái thứ tư trong tứ khoái của nhân loại, theo thứ tự thông thường là Ăn, Ngủ, Đụ, Ỉa. (Với những ông bà, táo bón kinh niên thì ắt phải đặt cái thư tư lên hàng đầu).

Ăn thì đã có Vũ Bằng, Thạch Lam, Nguyễn Tuân… thậm chí cả Băng Sơn cũng đã từng xía đũa vào mâm với các trưởng lão.
Ngủ thì hơi khó tả nên ít người đề cập tới, nhưng nếu cần thì tôi cũng có thể đóng góp một số kiểu, một số tư thế ngủ của “lính”.
Đụ thì hôm nay xin mạo muội xới ra để các vị tùy nghi phân tích cái thành phần cơ bản của nó. Đụ hay Đù là nói theo kiểu miền Trung và miền Nam, còn miền Bắc có thể nó véo von hơn hay nó cục mịch hơn thì tủy mỗi vị, Linh gia tôi không dám can thiệp vào sự uyên bác của các vị.
Vấn đề đầu tiên tôi đề cập là cái màng trinh mà không có giống nào ngoài giống người đề cao và coi trọng nó. Để Lục phủ ngũ tạng trong cơ thể được kín đáo hơn, nên ở chỗ cái cửa mình trống huếch đó có cái màng, nó như cái vung, hay cái nắp đạy hờ.
Không biết cái thành phần nào đã đặt tên cho nó là cái màng trinh? Tại sao chỉ nữ giới có màng trinh còn nam giới lại không có?
Cái gốc mất bình đẳng của loài người nó sinh ra từ đây. Thực ra khi cái màng đó chưa bị rách thì nữ giới không vì đó mà khỏe mạnh hơn, mà sống lâu hơn. Khi nó đã bục rồi thì cũng chẳng vì thế mà chết yểu? Trò này ra đời từ các triều đình phong kiến với những ông vua hẹp hòi, ích kỷ, phịa ra những sự ly kỳ từ cái màng trinh.
Năm 1975 vào tiếp quản Sài Gòn, tôi có đọc được một tài liệu y khoa do Mỹ xuất bản, nói về cái màng trinh, rách thế nào là bị hiếp, rách thế nào là thông dâm…? Tóm lại là Rách việc! Còn ở bên Tàu, nơi coi cái màng trinh như tấm bằng danh dự, nên mới sinh ra cái công nghệ lắp màng trinh giả, vì thế mới sinh chuyện. Có cái màng trinh không bị rách mà tụt cả cụm vào trong âm đạo. Thế là “huyền thoại” về cái màng trinh ra đời. Giống đực cứ nghĩ rằng mình là người đầu tiên chọc thủng sự trinh tiết của giống cái mới ngã ngửa người ra, mình không phải là người đầu tiên và chưa phải là người cuối cùng mắc lỡm.
Trong xã hội, từ mại dâm ra đời từ khi nảy ra quan niệm đàn bà là thứ hàng hóa. Thật là phiến diện và lố bịch trong khi cái thứ hàng hóa giống đực ngày càng lộng hành. Người ta nói đến những cuộc mua dâm của các quý bà sồn sồn ở nơi này nơi nọ với những ngôn ngữ lóng : “Phi công trẻ lái máy bay bà già”v.v…
Xét cho cùng, đây cũng chỉ là những cuộc Xin – Cho và hoàn toàn theo nhu cầu, nó không có gì là xa hoa, không có gì là trụy lạc. Nó chỉ bớt đi sự “che đậy” quá mức cần thiết mà thôi, và sự việc này không phải bây giờ mới có.
Vào những năm sáu mươi của thế kỷ trước, trong dàn nhạc của tôi có một nhạc công chơi Contrebasse, đúng ra nhạc công này phải giữ nhịp cho toàn dàn nhạc, nhưng nhạc công này toàn chệch nhịp. Có lúc bực mình tôi đã hỏi anh ta: Anh có phân biệt được temps fort temps faible (nhịp mạnh, nhịp nhẹ) không? Anh ta không trả lời, sau buổi tập anh ta mới tâm sự:
“Em tranh thủ đi phục vụ cho các bà trên dưới 70 ở phố HB, các bà yêu cầu chỉ có nhịp mạnh, nên em toàn chơi nhịp ¼, toàn nốt đen và nhịp nào cũng là temps fort, nên đã làm các bà líu lưỡi chửi: “Đ.t mẹ thằng Sì, thằng Sì đểu…ểu…ệu…ệu…” Cuối cùng tôi đành phì cười và tha cho anh ta cái tội loạn nhịp.
Hồi đầu kháng chiến chống Pháp, dân thành thị tràn về nông thôn, mang theo nhiều hình ảnh mê hoặc các cô thôn nữ, nên có câu “ủng hộ bộ đội” ra đời. Thời gian đó, người nào đã đi đò dọc trên những dòng sông đều biết sự lợi hại của những tấm chăn len, thậm chí chăn trấn thủ cũng đủ che đậy cho 2 người, một chủ chăn và một ngủ ké, người ta tự lựa ra những đôi phù hợp với sự ăn ý, có xin, có cho với tinh thần “ủng hộ kháng chiến” mà vẫn không mất gì nếu không muốn nói là còn được. Đến bến thì tình nghĩa cũng kết thúc cùng với chuyến đò. Chỉ hơi tiếc là không được tự do la hét. Sự la hét không có thì đành chịu vậy, chứ tự do dùng ngôn từ hỗ trợ (như các bà già kể trên) nó thần tiên hơn nhiều. Đành rằng trong những trường hợp đó những danh từ, những mệnh đề mang tính cách mạng, tính nghị quyết… thường không ai nhắc đến làm gì? Đành cứ câm lặng hưởng ứng, tuy thế cũng có trường hợp gây ra hậu quả khó xử.
Một anh chồng trốn trên xà gần noc nhà, thấy tận mắt lính tây nó hiếp vợ mình mà không dám kêu la. Ức quá khi Tây rút rồi anh ta mới tụt xuống và hỏi tội vợ: “Tại sao khi Tây nó hiếp lại còn ưỡn người lên?” Người vợ chỉ có khóc mà không trả lời, vì nếu có thể nói được thì chị sẽ bảo anh chồng rằng: “Sướng thì tự nhiên nó ưỡn mình lên chứ sao nữa mà còn phải hỏi?” Câu hỏi này ắt không xảy ra giữa những động vật giao phối phơi bầy.
Trong những năm “Chống Mỹ” lính lái xe thường kháo nhau có những chặng đường mà lái xe phải ngủ lại đêm thì dè chừng, đêm đến sẽ có người vạch màn chui vào, chẳng nói chẳng rằng cứ thế mà pénalty cho đến khi vỡ bóng mới thôi. Sinh hoạt như thú hoang trên đồng cỏ. Trốn được gia đình, trốn Hợp tác, trốn Đoàn, trốn Đảng, sinh hoạt một chút cho cân bằng sinh thái để rồi mai lại lao động Xã Hội Chủ Nghĩa, và như thế mới đủ sức mà vì Miền Nam ruột thịt. Lên án những con người này liệu có nên không?
Trong tiểu thuyết “Ba người khác” nói về cải cách ruộng đất, Tô Hoài đã tả một cô cốt cán, thừa máu cách mạng, lúc nào cũng sẵn sàng phục vụ các anh “Đội” nên đũng quần của cô đóng chệt lại một lớp như bánh đa… Đó là huân chương thành tích sau những lần cô đã tiêu diệt hết đội trưởng đến đội phó đội CCRĐ.

Tôi có một anh bạn vì có vợ là người gốc Hoa nên năm 1979 anh trở thành nạn kiều. Thời gian ở Hồng Kông anh sắm được một vật đại diện cho nam giới, thấy lạ mua cho vui, không ngờ một thời gian sau anh thú thật là bị vợ coi thường vì so với cái vật kia anh thua kém về mọi mặt. Nên khóc hay nên cười đây?
Lại chuyện một đôi vợ chồng, có phòng riêng, cửa đóng then cài hẳn hoi, anh chồng nổi sáng kiến bảo vợ: “nằm sấp xuống, tớ có cái này hay lắm… chị vợ nghe lời nhưng thình lình lật mình lại, gắt: cái trò con tiều, suýt nữa gãy cổ thằng bé.
Rồi chuyện, đang ấy thì con chó xông vào, nó tưởng ông chủ đánh bà chủ. Hay chuyện nửa đêm cô con dâu thút thít nức nở lên, mẹ chồng tưởng con trai bắt nạt vợ, ai ngờ chỉ vì tụt áo mưa xuống giếng.v.v…và v.v…
Ở Nhật Bản hàng năm có một lễ hội rất lớn, đông người tham gia rước linh vật là những dương vật các cỡ.
Phong tục cổ ở vùng Phú Thọ Việt Nam có lễ hội con trai rước dương vật đâm vào âm vật mà các cô gái cũng đang rước. Các cụ gọi đấy là Văn hóa phồn thực chứ có ai gọi là Quảng cáo mại dâm đâu?

Có dịp qua Hungrie tôi mới biết những khách sạn có đèn đỏ là những khách sạn có hoạt động Sex, và nghe nói ở Hollande cũng thế. Các dương vật và âm vật đều được mô phỏng và bầy bán trong các cửa hàng ở những đường phố chính. Một công viên ở Hàn Quốc có trưng bày những cụm tượng mô phỏng công khai những tư thế giao phối của con người. Những hình ảnh ấy không làm cho đất nước họ văn minh hơn hay kém văn minh đi? Còn ở ta không cần phải học tập họ, nhưng những quan niệm cổ hủ về giới tính về quan hệ nam nữ nên được uốn nắn cho cởi mở hơn, bớt phong kiến và đừng kéo dài sự mất dân chủ hơn nữa. Cần loại bỏ mại dâm và những khái niệm về nó ra khỏi đời sống văn minh của chúng ta.
 
Tự cổ chí kim, chưa có nơi nào mà kẻ gạ gẫm tình dục chỉ có nam giới, nữ giới cũng rất chủ đông. Nhất là khi đã bắt nhịp, đã thăng hoa thì những trò ma mãnh đâu chỉ có nam giới có sáng kiến mà thực ra nữ giới cũng phát huy sáng kiến đến cực độ, và thường có hành động cầm tay chỉ việc cho nam giới. Chẳng thế mà xưa đã có câu ca dao:
Chữ Trinh đáng giá ngàn vàng
Từ anh chồng cũ, đến chàng là năm
Còn như yêu vụng nhớ thầm
Họp chợ trên bụng cả trăm con người.

Quan hệ giới tính mở đầu cho cuộc sống lứa đôi. Các con vật thường không có ràng buộc, lề lối nào níu kéo. Nhưng sự hình thành dôi lứa cũng hết sức tự giác. Còn con người ràng buộc đủ mọi thứ. Nhưng cũng không tránh được luc no xôi chán chè là người ta tìm cách ngoại tình. Số người ngoại tình ở cả hai giới, cũng không thua kém nhau về số lượng Vì vậy có câu ca dao:
Hai tay cầm hai quả hồng,
Quả chát cho chồng, quả ngọt cho trai!
Âu cũng là một giải pháp công bằng, kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra.
Không biết khi con sư tử đực thấy con cái của mình đi với con đực khác thì thái độ nó thế nào? Chắc không thể văn minh hơn những con người có học thức như chuyện dưới đây:
Buổi trưa nọ, một ông có việc về qua nhà, thấy ông bạn của mình đang cùng vợ mình “không che đậy” đã bình tĩnh ứng xử nói với hai người nhưng chỉ mình ông bạn hiểu:
        “Pardont! Pas de probleme. Continue s’il vous plait !” (Xin lỗi! không vấn đề gì, nếu muốn xin cứ tiếp tục!).
Đối với giống vật, cái nhu cầu sinh lý nó được biểu thị đơn giản hơn nhiều. Con mèo nhà tôi mỗi khi động đực thì thường lăn ra nhà hoặc cong đuôi lên và cứ quấn vào chân chủ. Đêm đến thì thường la cà trên nóc nhà kêu gào thống thiết gọi đực (hay gọi cái). Chúng nó không biết thủ dâm.
Trong kháng chiến gian khổ, loài người có thành ngữ “bàn tay ta làm nên tất cả” để chỉ hành động thủ dâm. Chỉ cần hai bàn tay mà làm nên cả một cuộc giao phối, lâm ly kỳ thú đến rủn tỷ (như Tô Hoài tả Xuân Diệu trong Cát bụi chân ai, hay biết bao đấng nam nhi đã tự lực thoát cơn bức xúc.
Hồi mới tiếp quản, có nữ quân nhân dùng cái bóng đèn điên để thỏa mãn tình dục đến nỗi nổ cả cái bóng đèn, đành phải mở một cuộc trung phẫu để giải quyết tai nạn. Thật là mình làm mình chịu…Giá cứ như một anh nhà văn nhớn nào đó từng kêu vang giữa rừng Việt Bắc …”L… ơi nhớ quá l… ơi!” Tha hồ kêu, không ảnh hưởng gì đến hòa bình thế giới mà cũng chẳng sứt mẻ gì đến lập trường cách mạng. Cùng kỳ lý lắm thì noi gương mấy ông thủ trưởng xấu nết, xấu thói đè y tá, cần vụ ra mà dụ dỗ: “Cố lên tí nữa, qua cái “đầu mặt” này nữa là xong thôi mà!” Thủ trưởng cứ làm như ăn mía không bằng?
Trong quân đội có cái tổ chức Văn Công là chứa nhiều điều nghịch lý nhất. Các cụ đã có câu: “Nam nữ thụ thụ bất thân” thì phê là phong kiến, nên tập trung những thành phần ưu tú nhất của cách mạng vào đấy. Toàn những nam thanh nữ tú trai tài, gái sắc, nhốt chung một chuồng, nhưng bị mấy ông già “tâm thần” quản lý, cấm không cho quan hệ tình cảm, luyến ái… Bố ai mà nhịn được. Cứ hỏi các bố già đã từng “Lồn tù Cu hãm” mà xem, sẽ biết tại sao Trường Sơn có rừng cười? Tại sao có những ông nghệ sĩ thủ cả đồ lót của các bà nghệ sĩ, chẳng để thưởng thức cái hương cái vị của các bà thì để làm gì?
Vụng trộm nên có những trò dở khóc dở cười:
“… Mới đầu em cứ tưởng anh, sau mới biết là không phải! Đêm hôm tranh thủ gấp gáp. Sau cái khoảng tỉnh ngộ ấy liệu đã mất hương phấn gì? Thế là phải có “Pát Vuột”: Anh sẽ sờ ngón chân út bên phải, sau đó đến ngón chân cái bên trái, toàn là những thứ mà một kẻ mò mẫm nó chẳng thèm ngó ngàng tới, ấy thế mà có lần xuýt xẩy ra án mạng, vì hôm đó cô nàng lại bắt tréo chân (?)
Trong doanh trại, mỗi tấm ván làm giường nằm cách nhau chỉ 50cm, ma ăn cỗ mà không cọt kẹt là cực khó, tốt nhất là đổi phận cho nhau. Em ngồi lên đến đâu tùy thích, bốn tay nắm lấy nhau để em uốn ngửa người ra như cái máy bắn đá thời trung cổ. Ai chủ động, như thế đã rõ, ấy thế mà “ra toa” thì toàn bị phán nam giới là thủ phạm. Hay là Tòa án XHCN chỉ có duy nhất một kiểu tuyên án như thế. Đã là cưỡng dâm thì thủ phạm chỉ duy nhất là giống đực? Công lý hẳn không biết rằng các bà xơi thịt sống còn hơn cọp. Thế mới biết ở đời hễ cái gì đã thành kiến thì đều nặng mùi và khó ngửi cả.
Ở cái “Làng” có cả đàn ông lẫn đàn bà ấy, nhưng không có quan hệ giới tính nó sinh ra lắm thứ quái thai. Giá như lãnh đạo giáo dục luyến ái cộng với giác ngộ quyền lợi cách mạng để mọi người tự giác mà chọn lối hành sử văn minh nhất, có tình có lý nhất thì lại ra sức cấm đoán, nên đã sinh ra những thứ trang phục lạ đời: Có túi mà không có túi, vì túi quần đã được khoét thủng tiện cho việc vào hang bắt cọp, hay quần lót nữ giới kín mà hở. Cái đáy của nó kéo giài từ đằng sau ra đằng trước với hàng khuy bấm, kéo cái roạt là có thể đưa tốt rú rí vô cung, mà khi cần thì rút pháo ra khỏi khu phi quân sự cũng nhanh, xóa mọi dấu vết. Con người trở nên khôn ngoan đến mức khốn nạn.

Cấm đoán. Vi phạm coi như phạm pháp, nên có những cuộc họp cán bộ đem những cuộc trên dâu dưới bộc ra làm thịt. Lấy thư từ tỏ tình yêu đương của kẻ phạm tội ra đọc mà cứ như đọc “Dâm Thư”, người nghe cứ thấy bối rối rạo rực. Đũng quần giống đực thì thẩy đều “đội vải” còn giống cái chí ít cũng một khoang ướt bằng cái miệng chén, mặt mũi hừng hực như chỉ chực gây sự … Ấy thế mà mấy ông cấp ủy tổng kết là “thắng lợi rực rỡ”.
Đồ điên!
Phản đạo lý, phản tự nhiên, phản khoa học, nhất là phản nhân tính đến thế là cùng.
Thắng lợi của công cuộc cải cách yêu đương trong các đơn vị quân đội có nam có nữ, cũng to lớn không kém Cải Cách Ruộng Đất, chỉ khác là không có tí ruộng đất nào ở đây. Cả bốn từ CCRĐ đều là những thứ có trên con người kể cả miếng đất cắm dùi, và việc cắm cọc nhận ruộng.

Gần đây nhân cuộc gặp mặt toàn những “tình cu nghĩa sữa” có một em ngày xưa bé tí toàn được các anh bênh vực, nói với tôi: Chắc rằng anh không nhớ em? Sẵn cây gậy cầm tay, tôi chỉ ngay vào mặt em (tuy đã ngoại 70) và gọi: - Con Chi!, giống như ngày xưa anh vẫn thường gọi, làm em sướng quá mà ôm chầm lấy anh.
-         Tiếc rằng đây không phải CHỢ TÌNH KHAU VAI.

T.B
Xin các bạn lượng thứ, sở dĩ tôi viết những dòng này cũng chỉ vì đã cược với mấy anh bạn là cái gì cũng có thể viết được, miễn là không ảnh hưởng đến cái định hướng.  Không tin xin cứ hỏi Ban Tuyên Giáo hay các ông Tổng Biên Tập Lề Phải thì rõ.
Ngoài ra cũng xin các vị quen cái gì cũng sơn phết, bơn bớt đi cho, kẻo cái gì cũng làm nhem nhuốc cái gốc vốn đẹp đẽ của nó.

                                                       Linhgia83