Bài đăng phổ biến

Thứ Tư, 16 tháng 7, 2014

Anh đón em đi...



       Thấy các chú quá vất vả về vụ Hát Dê, anh qua đón các chú đi Tam Sa nhậu hải sản, xả xì trét!
     
(nguồn: haitrungnam.gov.rpc)

Thứ Sáu, 11 tháng 7, 2014

Mỹ yêu cầu Trung Quốc

Thượng viện Mỹ yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan

Thượng viện Mỹ hôm qua đã thông qua nghị quyết về Biển Đông, yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 và lực lượng hàng hải liên quan khỏi vị trí hiện nay. 



Tàu Trung Quốc bảo vệ giàn khoan Hải Dương 981 đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam. Ảnh: TTXVN.
Tàu Trung Quốc bảo vệ giàn khoan Hải Dương 981 đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam. Ảnh: TTXVN
Bản nghị quyết 412 hôm qua được Thượng viện Mỹ bỏ phiếu thuận, nhất trí thông qua nhằm tái khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của chính phủ nước này đối với quyền tự do hàng hải, sử dụng các vùng biển, vùng trời ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương theo quy định của luật pháp quốc tế, giải quyết các yêu sách và tranh chấp lãnh thổ bằng biện pháp ngoại giao hòa bình. 
Theo trang congress.gov, nghị quyết đề cập đến 4 nội dung cơ bản, trong đó có việc yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 và các lực lượng hàng hải liên quan khỏi vị trí hiện nay, kiềm chế các hoạt động hàng hải trái với Quy tắc quốc tế về phòng ngừa đâm va trên biển, và trở về nguyên trạng như trước ngày 1/5. 
Nghị quyết được sự bảo trợ của các nghị sĩ thuộc cả hai đảng, trong đó đảng Dân chủ có thượng nghị sĩ Benjamin Cardin, Patrick Leahy và Dianne Feinstein, còn đảng Cộng hòa có các thượng nghị sĩ John McCain, Marco Rubio, John Cornyn và James Risch. 
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình hôm nay hoan nghênh động thái này của Thượng viện Mỹ.
"Việt Nam hoan nghênh việc Nghị quyết 412 của Thượng viện Hoa Kỳ yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương-981 và các lực lượng hộ tống khỏi vị trí hiện tại, không có các hoạt động trái với Quy tắc quốc tế về phòng ngừa đâm va trên biển (COLREGs), lên án các hành động cưỡng bức, đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, thay đổi hiện trạng hay gây bất ổn ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương", ông Bình cho biết trong thông cáo của Bộ Ngoại giao. 
"Việt Nam mong muốn các quốc gia trong và ngoài khu vực, trong đó có Hoa Kỳ tiếp tục có đóng góp mạnh mẽ, thiết thực, hiệu quả và có tính xây dựng cho hoà bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không ở khu vực", người phát ngôn cho hay. 
Trung Quốc đầu tháng 5 hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 sâu trong vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Nước này huy động một lực lượng lớn máy bay, tàu, trong đó có cả tàu quân sự được trang bị vũ khí hiện đại, đâm va, phun vòi rồng, uy hiếp tàu kiểm ngư và cảnh sát biển Việt Nam. Tàu Trung Quốc còn đâm chìm một tàu cá của Việt Nam đang đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và ngăn cản hoạt động tàu Việt Nam cứu trợ đối với 10 thuyền viên của tàu bị chìm. 
Các hành động của Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, trái với tinh thần và lời văn của DOC cũng như các thỏa thuận cấp cao giữa hai nước.
Trọng Giáp

Nhà văn Tô Hoài

Nhà văn Tô Hoài từ trần ở tuổi 94
                          ( Nguồn:http://www.bbc.co.uk/vietnamese/  - Chủ nhật, 6 tháng 7, 2014)
 
                                  
Nhà văn Tô Hoài, một trong những cây viết tên tuổi của nền văn học cận đại ở Việt Nam, vừa qua đời sáng 6/7 tại Hà Nội, thọ 94 tuổi.

Ông tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 tại huyện Thanh Oai, Hà Nội, và lớn lên tại làng Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Đông (nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội)

Sáng tác nhiều ở các thể loại khác nhau như truyện ngắn, truyện dài, hồi ký, kịch bản phim, v.v..., nhưng có lẽ "Dế Mèn Phiêu Lưu Ký" mà ông viết hồi năm 1941 là một trong những tác phẩm của ông gắn bó với nhiều thế hệ bạn đọc thiếu niên Việt Nam nhất.

Tác phẩm này cũng từng được dịch ra hàng chục thứ tiếng.

"Vợ Chồng A Phủ", một sáng tác khác của ông, được đưa vào giảng dạy trong chương trình sách giáo khoa phổ thông và được dựng thành phim ở Việt Nam.

Năm 1992, hồi ký "Cát Bụi Chân Ai" của ông đã gây ồn ào dư luận khi đưa ra chân dung một số nhà văn thuộc hàng 'vai vế'.

Trong hồi ký, ông có nhắc tới Nhân văn Giai phẩm, một chủ đề luôn được coi là nhạy cảm, tuy cách ông đề cập, nhận định vấn đề được đánh giá là chính thống, phù hợp với cái nhìn của giới chức.

Gần đây hơn, tác phẩm "Ba Người Khác" mà ông viết về thời cải cách ruộng đất, cũng gây tiếng vang ít nhiều. Được biết tiểu thuyết này được viết xong từ 1992 nhưng tới 2006 mới được phép in.
                          
                                  Đọc sách của Tô Hoài
        
                      
                                                  Dế Mèn Phiêu Lưu Ký - ngắn (pdf) 
                                                Dế Mèn Phiêu Lưu Ký - toàn bộ (pdf)
                                Vợ Chồng A Phủ (pdf) - truyện ngắn trong tập Truyện Tây Bắc
                                                       Ba Người Khác (pdf) 
                                                       O Chuột (pdf) 
                                                        Nhà Nghèo (pdf)
                                          Cát Bụi Chân Ai  - ebook từ 4Phuong.net
                                 Tập Truyện Ngắn của Tô Hoài - ebook từ 4Phuong.net
                                    
                                                       Nhà văn Tô Hoài qua hí họa của Còm
              Tô Hoài, hơn cả một nhà văn - Minh Hạnh
                           

“Mình không được học như Huy Cận, Xuân Diệu nên ít chịu ảnh hưởng Tây học và không biết nhiều về sự hình thành các khuynh hướng văn học. Chỉ là tự nhiên, mình thích viết về cuộc đời thực” - Đó là lời tâm sự của nhà văn Tô Hoài, trích trong cuốn “Tô Hoài – Sức sáng tạo của một đời văn” (tác giả Hà Minh Đức).

Là một trong những nhà văn có bút lực và sức đi dồi dào bậc nhất làng văn Việt Nam, nhưng ít ai biết rằng, thời còn trẻ, nhà văn Tô Hoài chưa từng học qua các trường lớp đào tạo bậc cao về chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn.

Thuở nhỏ, ông chỉ học đến tiểu học rồi đi bán giày ba-ta ở Hàng Khay (Hà Nội). Vì vậy, hầu hết các kiến thức văn học và vốn sống mà nhà văn Tô Hoài có được đều do ông tự học, tự đi, tự nghiên cứu. Có lẽ cũng chính bởi vậy mà các tác phẩm của nhà văn Tô Hoài đều gắn bó chặt chẽ và vô cùng gần gũi với đời sống người dân Việt Nam.

Một khi đã bước chân đến đâu, đã đặt bút viết về cái gì, ông đều cố gắng viết cho thật, cho “tới”. Điều này thể hiện qua những trang văn chứa đựng phong cách và phong tục tập quán của bà con vùng cao như “Vợ chồng A Phủ”, “Miền Tây”…; hay những câu chuyện thiếu nhi sống động về thế giới động vật như “Dế mèn phiêu lưu ký”, “Một cuộc bể dâu”, “Cá đi ăn thề”…

Tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của nhà văn Tô Hoài đã được chuyển thể thành một bộ phim cùng tên

Thật khó để tìm được một nhà văn thứ hai vừa có thể miêu tả chân thật, tinh tế những cung bậc cảm xúc của cô Mị yêu sống nhưng bị giam cầm trong cảnh tù túng của “Vợ chồng A Phủ”; lại vừa có thể thổi hồn, nhân hóa những loài động vật nhỏ bé với một giọng điệu vô cùng hồn nhiên và trong sáng như trong “Dế mèn phiêu lưu ký”.

Không chỉ gắn bó với thể loại truyện ngắn, nhà văn Tô Hoài còn sở hữu một số lượng lớn các tác phẩm ký sự, du ký, hồi ký và cả tự truyện - sản phẩm của những chuyến đi dài, đi liên tục của ông từ lúc trẻ đến tận khi về già (từ Lào, Campuchia… đến cả các nước Âu, Mỹ, Á, Phi), mà ông thường coi là “bắt chước Dế mèn”.

Đi nhiều, viết nhiều nhưng văn của Tô Hoài hầu như ít lặp lại, đặc biệt không loãng và không nhạt. Tác phẩm nào cũng có một chiều sâu triết lý nhất định, nhân vật nào cũng có một thế giới nội tâm phong phú, dù cho nhân vật ấy là người hay những loài động vật. Đó là minh chứng rõ ràng nhất cho khả năng tìm tòi và sức sáng tạo dồi dào của ông.

Tuy nổi tiếng với vai trò nhà văn, nhưng ít người biết rằng: Tô Hoài cũng từng có một thời làm báo sôi nổi. Những tác phẩm văn học đầu tay nổi tiếng của ông viết trong những năm 1940 từng được đăng trên “Hà Nội tân văn chủ nhật” và “Tiểu thuyết thứ bảy”. Vì vậy, ông thường nói: chính nghề báo đã chắp cánh cho nghiệp văn chương của ông.

Các tác phẩm văn học của ông được chia làm 4 mảng chính: các tác phẩm viết về vùng núi rừng Tây Bắc trong thời kì kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội, về ngoại thành Hà Nội xưa và nay, sáng tác cho thiếu nhi, chân dung và hồi kí.

Tác phẩm "Dế mèn phiêu lưu ký" của nhà văn Tô Hoài đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới

Nhà văn Tô Hoài từng chia sẻ lí do viết văn của mình rằng: “Chỉ là tự nhiên, mình thích viết về cuộc đời thực”. Nghe tưởng chừng vô cùng đơn giản, nhưng để có được những trang văn thật là “thực”, thật là “tự nhiên”, nhà văn đã phải lăn lộn tìm tòi, tự học và tìm hiểu trong nhiều năm trời thì mới có thể đưa thế giới rộng lớn vào trang sách một cách vừa chân thực, vừa nên thơ như thế.

Tuy đã dừng viết văn, dừng “phiêu lưu ký”, nhưng những trang văn sống động về từng bước đường đã qua của nhà văn Tô Hoài sẽ vẫn sống mãi.

Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi, trên con đường đưa họ đến với thế giới động vật tưởng tượng thuở nhỏ, hay đến với những miền đất mới, đến với con đường đời dài rộng khi đã trưởng thành.
                              
                                                         Vợ chồng nhà văn Tô Hoài
           Đọc Tô Hoài để bước vào thế giới của mình
                             Nguồn: http://www.baomoi.com/ 07/07/2014



"Bây giờ nhớ lại, tôi cứ thon thót nghĩ rằng, nếu chẳng may không có những cuốn sách ấu thơ ngày ấy thì không biết cuộc đời sẽ ra sao..."


 Lứa trẻ con sinh vào những năm bảy mươi của thế kỷ hai mươi như chúng tôi lớn lên, phần nhờ cơm gạo xấu, bo bo, mì sợi thời bao cấp, và một phần lớn lại nhờ… các nhà văn, trong đó có nhà văn Tô Hoài.

Quả là bây giờ nhớ lại, tôi cứ thon thót nghĩ rằng, nếu chẳng may không có những cuốn sách ấu thơ ngày ấy thì không biết cuộc đời sẽ ra sao! Những ngày mùa đông xam xám, ngồi trong nhà đọc sách, thấy mình như trôi về một miền đất rộn ràng hoa lá, những dế mèn, bọ ngựa, cào cào, muồm muỗm, để đến bây giờ, ký ức tuổi thơ tôi vẫn cứ rộn ràng tiếng cười nói, đi lại, tranh cãi... của các nhân vật đồng quê thân mến ấy.

Tôi còn nhớ rõ cái cảm giác khi mở trang sách đã cũ kỹ rách nát vì qua tay nhiều người đọc ấy ra, tai tôi đầy ắp âm thanh. Đóng lại, là một sự lặng im riêng tư đầy cô đơn của đứa trẻ thích nghĩ ngợi. Bấy giờ, mới thong thả tưởng tượng lại những cảnh vừa đọc. Đó là một niềm vui bí mật, ngỡ tưởng của riêng mình ngày bé. Thế nhưng không phải. Sau này tôi vừa thích thú vừa thất vọng khi nhận ra rằng có rất nhiều người giống tôi, cũng ghi lại trong trí nhớ những chi tiết trong truyện y như tôi nhớ, không hiểu sao như được khắc chạm rất sâu trong đầu. Khắc bằng cả những câu chữ gọn gàng, không có gì phức tạp mà sao cứ lạ lạ, quen quen và đầy quyến rũ.

Một chàng võ sĩ Bọ Ngựa “hợm mình”. Một chàng mèo mướp có bộ lông “mờ mịt như tro ở bếp phủ lên”. Anh ri đá thích “nựng vợ”, chăm chỉ xây tổ ấm. Anh chim sẻ thích “to hó đứng ở đầu nhà”. Những ả Nhà Trò ưa “khóc tỉ tê”... Hay là, tôi cứ nhớ nhớ hình ảnh cậu “Cả Phúc” lôi thôi luộm thuộm trong “Vợ chồng trẻ con”, hoặc hình ảnh bé Mon trong “Đảo hoang” đi hái rau ngót rừng mà “hầm lá” bằng lá dong cho đến khi “cái lá hầm đã chín nục, bấm ngón tay đã đứt đôi”...

Những câu chuyện cuộc sống ở tận đẩu tận đâu, từ những ngày xưa, qua lời kể của nhà văn cứ tha thiết thấm dần mà âm thầm xây dựng cho người đọc một cái phông văn hóa Việt tinh tế, bền chắc. Bởi văn hóa Việt, theo như tôi nghĩ, đâu chỉ tinh tế ở những thứ tròn trịa, trang trọng, nề nếp như nơi phố cổ mà còn có những lầm lụi, chất phác, mến thân ở những vùng quê. Nếu nói riêng về thể loại đồng thoại, thì thế giới đồng thoại trong văn Tô Hoài sống động, có khả năng khắc họa hình ảnh mồn một rõ nét, cho cảm nhận về từng loại cây loại lá, từng loài động vật... bằng tất cả các giác quan thông qua cách dùng từ gợi tả chính xác, thú vị, dí dỏm.

Chỉ cần đọc thôi, chưa cần đưa tác phẩm của Tô Hoài vào phân tích mổ xẻ trong nhà trường, thì văn của ông đã có thể khiến đứa trẻ đang thờ ơ e ngại trở nên nhiệt tình, say sưa với cuộc đời này. Bởi vì trong truyện của ông, sức hút nằm ở những chi tiết bắt người ta phải nhớ, phải nghĩ, phải liên tưởng, đôi khi phải bật cười. Mà trẻ con thì có nhiều thời gian dành cho việc nghĩ ngợi mà cười một mình hay rúc rích cười với nhau.

 
Truyện đồng thoại của Tô Hoài dường như viết không nhắm riêng cho đối tượng nào. Khi trẻ con đọc thì truyện ấy rõ ràng dành cho chúng, còn khi người lớn đọc, thì họ thấy được cái thâm thúy, cái suy ngẫm của câu chuyện bằng chính cái thâm thúy mà họ có được, bằng suy ngẫm qua chính những gì họ trải nghiệm. Tôi nhớ có lần, một anh bạn người Nga của tôi say sưa kể về một “mister Man” nào đó với một người bạn nước ngoài khác. Hỏi kỹ ra mới biết, đó là… ngài Dế Mèn mà anh đọc được trong cuốn “Dế Mèn phiêu lưu ký” xuất bản bằng tiếng Nga những năm tám mươi của thế kỉ hai mươi. Và điều thú vị là, những cảm nhận của tôi về nhân vật Dế Mèn có nhiều điểm chẳng giống chút nào với cảm nhận của anh bạn cả. Mỗi người một xuất xứ, một hoàn cảnh sống và những kinh nghiệm sống khác nhau, chỉ giống nhau ở chỗ đã tiếp nhận Dế Mèn và những nhân vật xung quanh chú dế ấy một cách nồng nhiệt và yêu quý. Đọc Tô Hoài, mỗi chúng tôi rơi vào một thế giới, không phải của ông, mà là của riêng mình.
            “Dế Mèn phiêu lưu ký” 70 năm rồi vẫn thấm đẫm tình yêu thương
                                               (Nguồn: baomoi.com - 20/11/2012)
Buổi lễ kỷ niệm 70 năm ra đời tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu ký” của nhà văn Tô Hoài diễn ra tại Hà Nội vào sáng 20-11 đã mang đến cho độc giả những cảm nhận thú vị về giá trị của một tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi có sức sống vượt thời gian, đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng trên thế giới.

Nhà văn Tô Hoài sinh năm 1920 tại Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Hà Nội. Năm 1941, ông viết truyện “Con Dế Mèn” cho sách Truyền Bá của Nhà xuất bản Tân Dân. Năm 1942, ông viết tiếp 2 tập “Dế Mèn phiêu lưu ký”. Đây là tác phẩm đầu tay viết cho thiếu nhi của nhà văn Tô Hoài và cũng là tác phẩm quan trọng đánh dấu sự nghiệp sáng tác của ông.

70 năm qua, “Dế Mèn phiêu lưu ký” đã trở thành người bạn của tuổi thơ nhiều thế hệ thiếu nhi Việt Nam. Cuốn sách thấm đẫm tình yêu thương, ca ngợi lý tưởng hòa bình và tình bạn cao đẹp.
         
Nhà văn Tô Hoài phát biểu trong buổi lễ kỷ niệm70 năm ra đời tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu ký”

Tại buổi lễ kỷ niệm, những tham luận và phát biểu của các chuyên gia, nhà phê bình văn học đã làm nổi bật giá trị của tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu ký”.

“Dế Mèn không già, không mỏi. Bảy mươi năm và còn dài nữa về sau, Dế Mèn vẫn luôn trẻ. Một con Dế đã từ tay nhà văn Tô Hoài thả chu du thế giới tìm những điều tốt đẹp cho loài người, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Con Dế ấy đã mang tên tuổi ông đi cùng trên những chặng đường phiêu lưu đến với cộng đồng những con vật văn học thế giới, đến với xứ sở thiên nhiên và văn hóa của các quốc gia khác”, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nhấn mạnh.

Nói về cách sử dụng ngôn từ của nhà văn trong tác phẩm này, nhà phê bình văn học Vũ Nho nhận xét: “Nhà văn Tô Hoài chẳng những quan sát tinh tế, miêu tả sinh động từng loài vật như: Bọ Ngựa, Kiến Chúa, Châu Chấu Voi... mà ngôn ngữ kể chuyện cũng rất cuốn hút. Ngoài những từ ngữ hóm hỉnh, ý nhị, nhà văn còn sáng tạo ra không ít những từ mới mang thương hiệu Tô Hoài”.

“Dế Mèn phiêu lưu ký” được nhà văn Tô Hoài bắt đầu đặt bút viết khi ông mới 18 tuổi. Ở cái tuổi còn trẻ đối với người viết văn mà ông đã tìm ra phương thức viết mới. Điều này đã làm nên thành công của tác phẩm để đến hôm nay “Dế Mèn phiêu lưu ký” vẫn tiếp tục hấp dẫn bạn đọc.

Tác phẩm này không chỉ hấp dẫn độc giả nhỏ tuổi mà người lớn, cả những nước chưa biết đến con Dế Mèn là thế nào mà nhiều người cũng thích đọc, thích trải nghiệm cùng cuộc phiêu lưu của Dế.
              
                           Độc giả tặng hoa nhà văn trong ngày kỷ niệm

Phó Giám đốc Nhà xuất bản Kim Đồng Nguyễn Huy Hoàng tự hào khi nhắc đến tác phẩm này: “Mặc dù nhà văn Tô Hoài chưa có một ngày làm việc chính thức tại Nhà xuất bản Kim Đồng nhưng tên tuổi và tác phẩm của ông đều được in tại đây. Cuốn Dế Mèn phiêu lưu ký được Nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành năm 1960. Đến nay, tác phẩm này đã được chuyển thành truyện tranh, truyện có minh họa. Qua hàng chục lần tái bản với hàng triệu bản in, Dế Mèn phiêu lưu ký vẫn luôn được bạn đọc yêu mến và đón nhận”.

Theo đánh giá của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên – Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội: “Cha đẻ của Dế Mèn không viết chuyện bâng quơ. Cuộc phiêu lưu của Dế Mèn chính thực là có nội dung xã hội như ông đã nói. Mượn hình thức đồng thoại, nhà văn muốn cổ vũ những người bạn đồng trang lứa mình bước lên con đường xây dựng một xã hội tốt đẹp, hạnh phúc, không chấp nhận lối sống ủ rũ, buồn chán. Nhưng nội dung đó phải nhờ đến Dế Mèn rất nhiều. Hay nói cách khác, thiên bẩm văn chương đã mách bảo tác giả chọn hình thức đồng thoại để chuyển tải tư tưởng của mình”.

Tại buổi lễ kỷ niệm, Ban tổ chức còn giới thiệu với độc giả 14 bức tranh minh họa được rút ra từ các ấn phẩm “Dế Mèn phiêu lưu ký” khác nhau do các họa sĩ: Trương Qua, Ngô Mạnh Lân, Thành Chương, Tạ Huy Long sáng tác.

Trong dịp này, Nhà xuất bản Kim Đồng cho ra mắt hai tác phẩm mới của nhà văn Tô Hoài: “Nói về cái đầu tôi” và “Chú Bồ Nông ở Sa Mác Can”.

Dù đã bước vào tuổi 92 nhưng nhà văn Tô Hoài vẫn dành phần lớn thời gian cho sáng tác. Có lẽ ông là một nhà văn trẻ mãi không già trong văn chương để đến tuổi đại lão, ông vẫn cho ra đời những trang viết tươi rói, tung tẩy như thuở mới tung tăng cùng Dế. Hành trình phiêu lưu của Dế Mèn qua 70 năm vẫn hiệu hữu trong lòng độc giả.

Bài, ảnh: KHÁNH HUYỀN

HUỲNH TẤN MẪM


Cùng các bn Thanh niên-Sinh viên-Hc sinh thân mến,
Tôi là Hu
nh Tn Mm, không mang mt danh phn nào trong gung máy công quyn hay mt đa v xã hi, tôi ch là mt thanh niên – nếu các bn cho ti dùng t này – mt thanh niên nhiu tui, và hơn thế, là mt công dân có ý thc trách nhim v tình hình đt nước hin nay. Tôi tiếc là không còn nhiu thi gian và sinh lc như các bn, đ có th cng hiến mt cách xng đáng và trn vn cho mt vn hi mi đang đến vi dân tc.

Nh
ư các bn đã biết, s kin giàn khoan Hi Dương Thch Du 981 ca Trung Quc hin din hai tháng nay vùng lãnh hi Vit Nam, không phi là s kin ln đơn thun, mà nó biu hin mt tiến trình vô cùng h trng đi vi sinh mnh ca T Quc chúng ta, nó là màn m đu công khai cuc xâm lược ca Trung Quc vào lãnh th, lãnh hi nước ta trong kế hoch có quy mô thôn tính c Bin Đông, tng bước khng chế toàn vùng Đông Nam Á, đ thc hin mng siêu cường bá ch không giu diếm ca mình. Nó còn bc l cho toàn dân ta biết mi quan h m ám được che giu lâu nay dưới các t ng và khu hiu đp đ ca Đng Cng sn Trung Quc đi vi Vit Nam ta.

Nh
ưng đng thi cũng cn hiu rng đây là vn hi mi cho dân tc, vì nó mang ý nghĩa thc tnh toàn din ca mt giai đon lch s, bi toàn b s tht đã được phơi bày.
Vit Nam là mt nước nh v quy mô dân s và din tích so vi h, li chm phát trin v kinh tế, khoa hc k thut, v công ngh thông tin, công ngh quân s… li đúng vào lúc xã hi đang suy yếu, kinh tế bên b vc thm, tng lp lãnh đo thì suy thoái tư tưởng- đo đc – li sng, tham lam, nhũng nhiu đy khp. Th hi trong tình thế đó làm sao có th đi đch trước mt tham vng vĩ cung như thế ca đi phương?
Câu hi y đang xoáy vào lòng mi người dân nước ta, và chúng ta tht s day dt v câu tr li.

Dù chúng ta yêu hòa bình bao nhiêu, chân thành mong mu
n hu ngh bao nhiêu, tt c cũng bng tha, nếu không nói là t huyn hoc ly mình, trước tham vng ca ch nghĩa Đi Hán phương Bc.

Bành tr
ướng Bc Kinh đang tiến công chúng ta thế áp đo v bo lc, thế thượng phong v kinh tế, đánh ph đu ta v ngoi giao tuyên truyn. Quan chc cao cp ca Trung Quc – Dương Khiết Trì – đến nước ta, đưa ra mt thông đip vi tư cách cao ngo ca mt nước ln, th hin mi quan h bt bình đng không phi đt nhiên mi có: yêu cu ta chm dt cái gi là “quy nhiu” chúng giàn khoan HY981, đe da nếu ta kin chúng ra tòa án quc tế, ta s nhn ly “hu qu” khôn lường. Nếu ta “ngoan c” không hàng phc, chúng s phong ta kinh tế, phong ta b Bin Đông, và mi tai ha khác s xy đến. Chúng ngăn cn ta không được m rng liên minh quân s vi M và các nước khác, bi làm như thế chúng quy là ta mang ti “khiêu khích” chúng.

Các b
n th nghĩ xem. H bao vây và khng chế ta, nhưng không cho ta la lên đ nh người can thip, không cho ai giúp sc, vâng, trói li và đánh, buc ta phi t nguyn đu hàng!
Qua cách nói và hành đng ca h, cơ h như ta đã là quc gia ph thuc không có bao nhiêu ch quyn?

Các qu
c gia có ch quyn, có quan h bình đng, bt k là nước ln hay nh, chưa tng nói năng như thế. H đ, trch thượng phi bt ngun t mt thc tế. Song, yếu kém, nhu nhược vn cũng không phi không có nguyên nhân. Có khi là s tương thích bt ngun t nhng s kin chưa bc l t phía nhà cm quyn nước ta chăng? Dù sao cũng đã có mt câu phương ngôn đáng nh: “Nếu ta đng lên, là ta ngang hàng, nếu ta qu xung, thì ngang rn đi phương”.
Các bn thân mến,

Đó là k
ết qu ca mt thc tế yếu kém, hay t mt tinh thn bc nhược, hay c hai? S than trách hay nguyn ra đi phương lúc này qu là mt s xa x.
Làm công dân ca mt nước, làm sao ta không thy đau lòng khi đt nước b xâm lăng? Làm sao ta không thy nhc khi b k khác lăng nhc vào dân tc mình? Trên nhng con đường mà các bn đi làm hay đi hc hng ngày, trong công viên mà các bn do chơi, trong sách s mà các bn đã đc, luôn phng pht bóng dáng ca tin nhân, mang tên nhng v anh hùng, trong lch s hàng nghìn năm tri qua tng thế h, đã chng tr li bn xâm lược phương Bc oanh lit ra sao, và không h khiếp s. Tin nhân đã đ li cho chúng ta mt giang sơn v vang. Đến lượt chúng ta, chúng ta không th thoái thác, và không h thoái thác bi bt c lý do gì, đ hết lòng bo v giang sơn y.

Nh
ưng li tâm tình ca tôi là vô nghĩa, nếu tôi không nói vi các bn rng, sc mnh có ưu thế nht đang ln lên t trong tim và trong trí tu ca các bn, là nim hy vng ca dân tc – nhng thế h Thanh niên-Sinh viên-Hc sinh hôm nay. Các bn đang đng đu th k 21 ca mt nhân loi đang toàn cu hóa, mà tri thc thì tr nên vô biên gii và không ai có th che giu hay đc quyn được.

M
t cuc chiến đu đ bo v T Quc bng mi bin pháp và thông minh mà các bn sn sàng dn thân, và mt xã hi mà các bn cn xây dng, có tương lai như thế nào, là hai vn đ quyn vào nhau mà có l các bn đang suy nghĩ?
Đ có mt đt nước đc lp t do, trước hết mi chúng ta cn có mt trí tu đc lp t do, không đ b nhum đen, nhum đ, hay bt c màu nào khác; nó phi là lòng yêu nước nng nàn, trong sáng, yêu hòa bình đc lp và dân ch bng mt nhn thc kp thi đi. Mt cuc chiến đu ch bng nim tin và sinh mng dù rt cao c, nhưng nó s đem li mt kết qu ra sao?

M
t xã hi các bn mong mun, chưa biết là thế nào, nhưng ít nht, và chc chn nó không th là mt xã hi như các bn đang nhìn thy, nó đy dy nhng bt công, trên mt tng nn ca hp hòi và thin cn, nó không bao gi là bn vng!
Tôi không mun nói mt câu như sáo ng: tương lai đang nm trong tay thanh niên, vi nghĩa nó là màu hng. Không, có th nó không đến các bn vi màu hng, nò tùy thuc vào ý thc ca các bn. Đó là cái nhìn thng vào thc tế vi đôi mt biết đúng sai và nói được tiếng nói ca trái tim mình. Mt cuc chiến đu s rt mnh m khi nó có đy đ chân lý.
Điu tôi mun nói cùng các bn, chúng ta phi cương quyết làm người công dân t do, dù xã hi chưa có lut pháp tha nhn t do đúng nghĩa. Chúng ta cương quyết làm con người có quyn con người, dù quyn con người chưa được tha nhn đy đ. Chúng ta có quyn và có nghĩa v – quyn sng t do và nghĩa v bo v đc lp, toàn vn lãnh th. Tôi trm nghĩ, t do trong bi cnh Vit Nam hôm nay quan trng hơn vì nó cha c s đc lp. Tôi mun nói đến mt th chế dân ch, mt xã hi dân s, nó s không b đem ra mua bán hay đi chác bt ng bi mt đt nước, nếu nm gn trong tay ca mt nhóm người đc quyn.

Chúng ta tin t
ưởng s gi được đc lp t do, s bo v được giang sơn vì chúng ta có hai điu quan trng:
- Mt, chúng ta có chính nghĩa, l phi v phía chúng ta. Thế gii bây gi là s liên kết rng ln và có sc mnh vô tn, vn đ là ta có làm cho sc mnh y hi t li được hay không? Chúng ta có làm rõ chính nghĩa đ xng đáng được nhn s ng h đó hay không? Chế đ phát xít ca Bc Kinh hin nay vi ch trương bo lc và bành trướng đang t đào m cho mình, và nhân loi s chôn chúng. Tôi tin chc chn điu đó s xy ra như lch s nhân loi đã cho thy.
- Hai, chúng ta biết sa mình. Mt quc gia hùng mnh là vì có phương hướng đúng, mt quc gia yếu kém là vì có phương hướng sai. Đó là mt th chế chính tr tiến b hay lc hu, có to được sc mnh đoàn kết ca toàn dân hay không mà Vit Nam ta phi cp bách xem xét đ sa đi. S sa đi đó phi đến t sc mnh đoàn kết ca nhân dân, k c nhng lc lượng, nhng con người t trong b máy nhà nước, và đng bào nước ngoài.

Tôi t
hi, có l cũng ging như các bn, vì chúng ta không mun hy sinh xương máu khi chưa cn thiết, và nếu chúng ta là chính nghĩa, ti sao chúng ta không dám kin đ đưa h ra tòa án quc tế? Thế gii ngày nay không còn thi k hng hoang, nhân loi không phi là by thú trong rng đ con ln d dàng giày xéo con bé, hay chính chúng ta mang mc cm t ti, ti li và hp hòi mà không dám nhìn nhn và tiếp nhn sc mnh đang rng m ca thi đi? Làm sao chúng ta có th tin là an toàn và có giá tr khi t thu mình, núp vào hang “hu ngh” gi di dưới nách ca k xâm lược?

Th
ưa các bn,
Bao gi, hay ngay bây gi chúng ta có th ct lên tiếng nói thng nht, mnh m đi vi nhng người đang mang trng trách dn dt dân tc?
Hin nay, tôi không tán thành nhiu điu, trong đó có hai điu căn bn và cp bách mà Chính ph ca Đng Cng sn Vit Nam đang thc hin:

1- Đ
t Hiến pháp cũng như lut pháp ca mt Quc gia dưới cương lĩnh và các ch th ca Đng Cng sn. Thay vì ngược li, Đng Cng sn phi đt mình dưới Hiến pháp và lut pháp nhà nước, vi chc năng là thi hành ch không phi ch đo. T s trái ngược đó, vi quyn hành đc đoán trong tay, Đng đã t tha hóa và suy thoái (như đã t tha nhn), đưa đến mt Chính ph thiếu trách nhim và không hiu qu, làm cho xã hi ru rã, không phát trin và mt dn sc sng, người dân tr nên lơ láo, mt phương hướng và tích lũy ni bt bình. Tình trng này là điu kin phù hp ý mun ca k xâm lược.

2- Đ
ường li đi ngoi hin nay, là thuc v Đng Cng sn, c th là B Chính tr, ch không phi do mt Chính ph ca nhân dân, vì thế đã không gi được tư thế chính danh ca mt Quc gia, đc bit trong quan h vi Trung Quc. Các t ng: hu ngh, bn, môi răng, đng chí, anh em, 16 ch vàng (*), 4 tt…đã xóa tan tư cách và khong cách phi có ca mt quc gia vi mt quc gia. Mi quan h mang tính cht tình cm quá đà và đc hi đó đã tràn ngp trong tư tưởng gii lãnh đo, quan chc, các đoàn th, k c Đoàn Thanh niên Cng sn mi ln sau chiến tranh, th hin li nói, phong cách trong các văn kin cũng như trong cách hành x, chng t mt tinh thn da dm, bu víu, l thuc, thiếu t tin ca tâm lý nhược tiu chưa trưởng thành v mt quc gia, làm mt quc th, ca gii lãnh đo hin nay. L ra, mi quan h không chính danh đó phi được chm dt, khi chiến tranh chm dt và đt nước thng nht. “Ân đn oán tr” gì khi còn nm trong rng sâu sui lnh, thì cũng phi minh bch trong chính sách ngoi giao, không “giáo dc” toàn dân theo cách “xóa tan biên cương” mp m như thế được! Vì thế, làm sao trách thái đ k c ca Dương Khiết Trì khi bo Vit Nam “quy ri” chúng giàn khoan, hay kêu gi Vit Nam “ đa con đi hoang hãy sm quay đu v”, hoc bí thư Qung Đông gi “danh mc công vic phi làm” cho B Ngoi giao ta?

Tôi s
ng min Nam, và biết người dân min Nam đu nhn thy cc k phn n v cách ngoi giao xa l như trên.
Thưa các bn,
Văn hóa ngoi giao cũng là biu hin chiu sâu ca thc th. L nào tôi dám nói ép, nói oan cho các lãnh đo Vit Nam chăng, khi cho rng mi quan h được biu hin như thế là xut phát t hành vi và tư duy l thuc do quán tính, hoc do “tn đáy lòng”?

Tôi không tán thành v
mi quan h bt bình đng, được gi là “hu ngh” gia Vit Nam và Trung Quc lâu nay, mà ông Tng Bí thư Đng Cng sn Vit Nam đang c gng níu kéo mt cách vô vng trong cô đơn và s hãi, có tác dng cun c đt nước rơi vào qu đo ca bành trướng Bc Kinh. Tôi cho rng Trung Quc là không đáng s, mt nước rng v đt, đông v dân, mnh v bo lc, ch không h là mt nước ln vi ý nghĩa là có sc mnh văn hóa, văn minh và đáng n trng. Không t cúi người xung đ phong Trung Quc là đi ca vô đch. Cũng không th có ý nghĩ đến vic có th hay không th “rinh” đt nước chy đi nơi khác vi li than th vô nghĩa: “Có ai chn được láng ging đâu!”. Tht ra đó là ý ca mt tướng Tàu đã nói Hà Ni các đây hai năm, nhm đe nt Vit Nam đã l nm cnh Trung Quc, không th “chn” thân phn khác được đâu, l ra không nên lp li theo cách áo não như thế. Th tướng Nht, chưa tng than van chuyn phi bê my hòn đo ca mình đi đâu. N Tng thng Hàn Quc cũng không có mt li nào tương t!

Tôi chân thành bày t
, chia s cùng các bn v nim t tin và t hào ca dân tc, trước vó nga ca quân Nguyên-Mông xưa, nay là trước s hung hăng ca quân Tp, vi tinh thn là nhân dân phi biết làm ch vn mnh ca mình, thông qua mt th chế dân ch bi mt Hiến pháp đng đn, và quan h bình đng không l thuc Bc Kinh. Đó là khng đnh căn bn và lâu dài, dù cho nay mai giàn khoan có th rút đi, hay thay mt chiếc khác. Mi quan h gia “hai” dân tc – theo nghĩa dân s – xưa nay chưa tng có vn đ, ngoi tr bn cm quyn hung hăng mi lúc. Nhc li điu này vi dân chúng cũng li là mt xa x na.
Hai điu nêu trên, không phi là vô cùng h trng ca hin tình đt nước đáng trăn tr hay sao?

Chúng ta không đ
s th ơ ca hôm nay là ni hi tiếc ca ngày mai. Chúng ta không mun mt đng bào nào ca mình phi t thiêu như người Tây Tng, không mun nhng nhóm thanh niên ta đến lúc phi vung dao liu chết vào bn Hán tc các bến tàu như Tân Cương. Và chúng ta cũng cn tinh tường cnh giác v nhng k din hài ni đa.
Mt phương châm chân chính đã tng vang lên trong lòng dân tc: “Chúng ta yêu hòa bình nhưng sn sàng chiến tranh” đ bo v T quc.
Mong rng tôi có nhiu cơ may được gp các bn, góp phn nh bé ca mình cùng các bn bước ti, cùng c đt nước đng hn lên đu tranh, gi vng đc lp trước s khng chế và xâm lược ca Bc Kinh, xây dng mt xã hi dân s vng chc, công bng và dân ch.

Ao
ước thay!

Trân tr
ng kính chào.
Hunh Tn Mm – mt thanh niên nhiu tui.