Bài đăng phổ biến

Thứ Tư, 31 tháng 8, 2016



NGÀY 2 THÁNG 9, THAY ÔNG VUA BẰNG ÔNG CHỦ TỊCH

  


Năm 1945, với một thanh gươm do thợ rèn sản xuất và bán ở chợ Đơ Hà Đông, tôi đã theo đoàn biểu tình cướp chính quyền ở Thị Xã Hà Đông vào ngày 17 tháng 8. Cuộc biểu tình đã bị dìm dưới làn đạn của Quản Dưỡng và chìm xuống dòng lũ do vỡ đê Đông La. Tôi chạy thoát cùng đoàn người “chạy như vịt” lội, chạy tóe nước. Cảm giác bi hùng đó tôi vẫn giữ bên lòng như một kỷ niệm đầu đời đi theo đảng Việt Minh.
Sau vụ này thì anh Quản Dưỡng đi đâu không ai biết, nhưng cứ theo lời bài Quốc ca “Thề phanh thây xé xác quân thù!” thì mười phần chắc cả mười là Quản Dưỡng đã được đưa đi nuôi giun. Quan thầy của Quản Dưỡng là Tỉnh Trưởng, Tổng Đốc Hồ Đắc Điềm (con rể Hoàng Trọng Phu) vì đã lánh mặt, có chứng cứ ngoại phạm. Thực ra là do chính sách chiêu hiền của ông Hồ Chí Minh mà thoát chết và còn được dung nạp dài dài sau này.
Cho đến tận bây giờ tôi vẫn đi theo sự lãnh đạo ấy. Làm những gì theo Tuyên giáo nói và noi gương các đồng chí đảng viên. Trong óc đặc sệt những hai phe bốn mâu thuẫn, những tư bản và vô sản và một lòng tin Việt Nam sẽ tiến lên Cộng Sản Chủ Nghĩa bằng cuộc đấu tranh giai cấp, đi tắt đón đầu và với sự hỗ trợ của Phe Xã Hội Chủ Nghĩa hùng mạnh... Thế đấy trong bộ óc trắng tinh của tôi đã dần được nhuộm một mầu đỏ lờ lờ chứ chưa đỏ rực như đảng viên. Sự giác ngộ tột đỉnh mà một anh Tiểu Tư Sản như tôi có thể có được.
Hơn bẩy mươi năm đã qua đi, càng về cuối trong tôi bổng nẩy ra những “hình như” và “giá như”, ngược lại với sự suy nghỉ theo dòng cố hữu. Điều đầu tiên, tôi đánh giá lại cái sự mang gươm đi “mở cõi” của tôi. Nói rằng tôi đã theo các đồng chí đi đánh Pháp duổi Nhật thì hình như hơi bị “thậm xưng”. Pháp thì đã bị Nhật hất cẳng hoàn toàn vào ngày 9 tháng 3 năm 1945. Nhật thì đã đầu hàng Đồng Minh vào ngày 15 tháng 8 năm ấy. Thực ra Việt Minh chỉ làm cuộc đảo chính, cướp chính quyền từ tay Chính phủ Trần Trọng Kim. một chính phủ đại điện cho một Quốc Gia có Quốc Kỳ là lá cờ Quẻ Ly và Quốc Ca là Bài Tiềng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước, với khẩu hiệu biểu trưng là “Dân Vi Quý”. Việt Nam vẫn có Quốc Vương là ông vua Bảo Đại, Nguyễn Vĩnh Thụy. Cùng với Campuchia có Quốc Vương Sihanouk và Láo có vua Sisavangvong là ba vương quốc trong Liên Bang Đông Dương.
Trước tình thế đều có thể mang lại lợi ích cho bất kỳ bên nào chiếm được thời cơ. Cuộc cờ Đông Dương náo nhiệt hẳn lên. Trước nguy cơ Việt Nam mất trắng về tay Việt Minh của Hồ Chí Minh, Việt Nam có thể bị nhuộm đỏ (theo phe Cộng Sản). Phái De Gaulle ở Pháp cấp tốc kiếm con bài thay thế Bảo Đại đã theo Hồ Chí Minh làm cố vấn Vĩnh Thụy.
Thế giới sau thế chiến thứ hai có xu thế các nước Tư Bản Đế Quốc trao quyền tự quyết cho các nước vốn là thuộc địa. Bước một là nước Tự Trị, có quyền ngoại giao, có tài chính riêng, có quân đội riêng nằm trong sự bảo trợ của nước trước đây là “Mẫu Quốc”. Sau một thời gian 4 đến 5 năm, khi nước tự trị đã cứng cáp lên thì quân đội đồn trú sẽ rút hết và trao trả quyền độc lập cho nước này. Nghĩa là giành độc lập theo thi hành Hiệp Định chứ không phải dùng chiến tranh giành độc lập. Cuộc thay đổi này Việt Minh gọi là Chế độ Thực Dân Mới thay cho chế độ Thực Dan Cũ đã lỗi thời. Nên Việt Minh không mắc lừa, và phải chiến đấu đến ... một bên phải đầu hàng.
Theo đường lối này thì đã có những nước dưới đây, vốn là thuộc địa đã được trao trả độc lập mà không tốn xương máu:
Độc lập năm l946: Phi Luật Tân thuộc Hoa Kỳ, Syrie và Liban thuộc Pháp. Độc lập năm l947: Ấn Độ và Đại Hồi thuộc Anh. Độc lập năm l948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine thuộc Anh. Độc lập năm l949: Việt Nam, Ai Lao, Cao Miên thuộc Pháp, và Nam Dương thuộc Hà Lan.
Cuối năm 1945, Pháp đã tính con bài Cựu Vương Duy Tân sẽ là đại điện cho Việt Năm để Pháp thương lượng trao trả độc lập. Rủi thay, trên đường từ Pháp về thăm nhà tại đảo Réunion, Duy Tân đã bị tử nạn vì máy bay rơi tại Trung Phi.
Nước cờ mà Hồ Chí Minh đi tiếp là căn cứ vào nội dung mà De Gaulle định ký kết với Duy Tân, Hồ Chí Minh đã đi những bước, tuyên bố giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương ngày 11 tháng 11 năm 1945. Mở rộng chính phủ liên hiệp có Việt Quốc (Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam) và Việt Cách (Nguyễn Hải Thần) tham gia để trở thành một chính thể đa đảng, rồi gợi ý ký kết với đại điện Pháp là Sainteny ở Hà Nội một tạm ước vào ngày 6 tháng 3 năm 1946, tiếp đó là Hội Nghị Fontainebleau để bàn sâu thêm về nội dung Hiệp Ước. Hội nghị không thành công, trước khi về nước Hồ Chí Minh ký thêm một thỏa ước với Marius Moutet tại nhà riêng vào ngày 14 tháng 9 năm đó, không ngoài ý định kéo giài thời gian để củng cố lực lượng, chuẩn bị chiến tranh nếu cần. Pháp cũng rõ ý đồ của Việt Minh, nên tăng cường khiêu khích, ép Việt Minh vào thế bắt buộc phải nổ súng sớm để có cớ tiêu diệt cái anh VẸM khó chơi này.
Đây là một nước cờ mà anh Pháp đã không “Tri kỷ, tri bỉ”, tưởng rằng có thể nuốt chửng Việt Minh trong ngày một ngày hai. Cái sự tính toán sai lầm đó đã châm ngòi cho cuộc chiến tranh chính thức về Ý Thức Hệ giữa hai phe đối đầu vào thời bấy giờ.
Trong lời kêu gọi Toàn Quốc Kháng Chiến, có câu: “Ta càng nhân nhượng thì giặc Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta một lần nữa...” là một câu vừa đúng vừa sai.
Sau tạm ước 6 tháng 3/1946 và thỏa ước 14 tháng 9 cả Pháp và Việt Minh đều biết đây chỉ là động tác giả. Việt Minh trước sau một lòng giữ độc quyền yêu nước và độc quyền lãnh đạo Việt Nam không nhường bất kỳ ai. Việt Quốc, Việt Cách cũng biết tỏng bụng dạ Việt Minh và Pháp cũng biết không thể chơi với Hồ Chí Minh như với Duy Tân được. Cả hai bên đều rình sơ hở của nhau để ra đòn. 20 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946, đòn đã được tung ra. Hồ Chí Minh đã huy động cuộc Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến. Mỗi ngày qua đi Pháp cũng đã biết sẽ hao người tốn của nếu đi nước cờ ngược với xu thế chung lúc này, nên năm 1947 Pháp đã ký một hiệp ước tạm thời với Bảo Đại tại Vịnh Hạ Long và Chủ quyền độc lập của Việt Nam được thừa nhận bởi Hiệp Định Élysée ngày 8-3-1949 ký kết giữa Tổng Thống Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại.Từ đó, chiếu công pháp quốc tế, Việt Nam được hòan toàn độc lập, các hiệp ước thuộc địa và bảo hộ ký với Pháp trong hậu bán thế kỷ 19 đã bị Hiệp Định Élysée bãi bỏ. Ngày 23-4-l949, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ thuộc địa để sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất (với 45 phiếu thuận và 6 phiếu chống). Nước Việt Nam đã là một dải kéo dài từ Nam Quan đến Cà Mau.Tuy nhiên Đảng Cộng Sản đã phủ nhận và đã phá hoại nền độc lập thống nhất này.
Trước đó ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng Trường Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam. Đây là tuyên ngôn tỏ rõ ý chí của dân tộc Việt Nam, nhưng đối với thế giới mới chỉ là Việt Nam tự công nhận mình. Ngay cả phe ta cũng phải nhiều năm sau, khi Liên Xô và Trung Quốc ra tuyên bố công nhận Việt Nam rồi các nước khác trong phe ta mới lần lượt công nhận. Những năm trước đó Việt Nam mới tự chiến đấu vì mình thôi. Sau Hiệp nghị Élysée, Việt Nam cũng đã được Quốc tế công nhận, nhưng Việt Nam chỉ độc lập với chính phủ Cộng Hòa do ông Bảo Đại lãnh đạo. Đối với ông Hồ thì đây là Chính phủ Ngụy Quyền, Quân đội của nhà nước này chỉ là Bảo Chính Đoàn và là ngụy quân, tay sai của Thực dân Pháp. Nói trước đây ông Hồ cũng đã ký kết thừa nhận mình là nước tự trị trong Liên Hiệp Pháp. Ai biết đó chỉ là “động tác giả” và ông Hồ chỉ đùa dai mà thôi. Độc lập phải tự tay ông giành lấy trong cuộc chiến ý thức hệ mà phe cộng sản phải thắng phe Quốc Gia. Vì thế mà từ 1949 đến 1975, dân Việt Nam đã chơi một ván cờ mà một bên đổ máu vì cộng sản chủ nghĩa và bên kia là đổ máu để bảo vệ phe Tư Bản Chủ nghĩa, bảo vệ tên sen đầm quốc tế. Trên một chiến trường mà bên nào cũng chỉ là lính đánh thuê cho chủ nghĩa của minh. Cùng dương cao lá cờ đấu tranh vì độc lập dân tộc, và bên nào cũng coi bên kia là bán nước là phản động. Đáng buồn là bên nào cũng có trên đầu một quan thầy nhìn mình với con mắt rẻ rúng. Yểm trợ tùy hứng, dùng hay bỏ như trở bàn tay. Mỹ thay ngựa giữa dòng là chuyện bình thường, nâng lên hay hạ bệ một ông Tổng Thống như quăng ra một con bài. Với chế độ của ông Hồ Chí Minh thì không thể trắng trợn, nhưng vẫn o ép bằng cách cưỡng bách tàn bạo. Gọi là thắng lợi trong việc ký kết Hiệp Nghị Genève, nhưng chính Chu Ân Lai và Molotov ép ta phải nhận Vĩ tuyến 17 là ranh giới tạm thời (trong khi ta đòi vĩ tuyến 16). Sau 1955, khi ta chủ trương kết hợp đấu tranh vũ trang với chính trị, thì Mao Trạch Đông khuyên ta phải trường ký mai phục 10 đời, thậm chí 20 đời sau, đã chót nổ súng thì chỉ được đánh đến lực lượng một trung đội, không được đánh lớn hơn. Năm 1975 khi ta đã giải phóng Đà Nẵng thì Trung Quốc khuyên ta nên dừng lại (?). (Hồi ký Lê Duẩn). Đúng là đầu óc một “đồng chí” độc tài, duy tâm và ngu xuẩn.  Tôi có thể cá 10 ăn 1 với ông Lành, người đã từng gọi Staline bằng Ông (Ông đẻ ra cha) là ngay cả Bác Hồ Chí Minh của ông, cũng chưa bao giờ được coi trọng dưới con mắt của nhà Độc tài Vô Sản Staline.
1974 Sau cuộc gặp gỡ Nixon Đặng Tiểu Bình, Mỹ đã phớt lờ cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam. 1984 khi Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Trường Sa thì lực lượng Liên Xô đáng đóng ở Cam Ranh cũng án binh bất động... Họ đã hành xử với ta tùy theo lợi ích nhóm của họ. Ta cứ việc cúi đầu theo những Ông Thầy ưa đổi trắng thay đen, chứ chẳng vì lợi ích Quốc tế nào cả.
Phe Tư bản huy động vũ khí, chiến cụ và các sắc lính, kể cả lính đánh thuê. Lính Lê dương, lính các thuộc địa Châu Phi của Pháp, thậm chí Nhà Thờ cũng có hẳn đội quân riêng để bảo vệ Chúa thoát khỏi sự khủng bố của Cộng Sản. Sau 1954 là  Lính Hàn Quốc, Tân Tây Lan, Úc Châu, Thái Lan, Phi Luật Tân cùng với lính Mỹ huy động đến nửa triệu quân. Lính bản địa thì có Bảo Chính Đoàn, thời Pháp, Quân đội Việt Nam Cộng Hòa hợp tác với Mỹ chơi với Việt Cộng.
Phe Cộng Sản thì riêng Việt Nam huy động tất cả những ai có thể cầm súng được đều ra chiến trường, cộng với vũ khí chủ yếu của Liên Xô và Trung Quốc viện trợ để thay họ đánh với phe kia. Việt Nam có máu, phe ta có súng, chiến đấu tới người Việt Nam cuối cùng. Mà nếu có hết người Việt Nam thì Mao Trạch Đông và những người kế tục ông sẽ điều người Hoa sang lấp vào chỗ trống. Các đồng chí Việt Nam cứ yên tâm đi. (Hồi ký Lê Duẩn)
Hiện nay Phe ta không còn nữa, chiến đấu vì phe ta là chuyện hài hước. nhưng Phái thì vẫn còn đó. Mỗi phái đều có lợi ích riêng. Trong một nước thì mâu thuẫn chỉ là sự lục đục nội bộ, nhưng giữa hai quốc gia là chuyện có thể dẫn đến chiến tranh. Ván cờ Việt Nam hiện nay là dối đầu với Trung Quốc, trước kia tuy cùng phe, nhưng bây giờ là quan hệ mang tính lưu manh, côn đồ, xã hội đen định hướng cộng sản chủ nghĩa.
Thật buồn cho Việt Nam, đổ bao nhiêu xương máu để bây giờ vẫn chưa hoàn toàn là một nước độc lập, còn biết bao sự lệ thuộc và vẫn là một xã hội còn nhiều bất ổn, Hiến pháp liên tục soạn thảo, luôn thay đổi và ít hiệu lực. Là một nước mới thoát nghèo nhưng tham nhũng tràn lan và nhân dân vẫn phải è cổ để nuôi nhiều sắc cán bộ, và đi hoài mà chưa tới đích.
Điển hình cho chế độ là chính sách về ruộng đất. Một chính sách lớn bắt đầu từ cuộc cách mạng long trời lở đất Cải Cách Ruộng Đất, cướp lại ruộng đất từ tay Địa chủ Phong Kiến để rồi lại trao vào tay các địa chủ cách mạng mới là Chính quyển các cấp. Nông dân trước sau vẫn không được làm chủ ruộng đất. Chủ trương Ruộng đất thuộc sở hữu Toàn Dân, đồng nghĩa với Vô chủ. Trong hoạt cảnh này, nông dân như những chú ếch mà chính sách của Đảng như những bông hoa mướp, cứ vồ trượt hoài mà rủi anh nào vồ trúng thì cũng đồng thời vào giỏ. Vấn đề Ruộng Đất là một khủng hoảng mà theo đường lối cộng sản thì  không bao giờ thu xếp ổn thỏa được.
Chỉ tồn tại việc treo cờ vào dịp 2 tháng 9, đã trở thành một thói quen, mà rủi có sao nhãng thì đã có tổ trưởng dân phố đến tận nhà nhắc nhở đôn đốc.
-        Nhà này treo cờ đi nhớ!
Rồi kết thúc bằng một đêm pháo hoa như toàn dân “nổ đom đóm” tập thể.