Bài đăng phổ biến

Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2012

NHÂN NÓI VỀ XÂY DỰNG LẠI BẢO TÀNG LỊCH SỪ VIỆT NAM



Dự án Bảo tàng Lịch sử quốc gia: 11.277 tỉ đồng
TT - Bộ Xây dựng vừa có tờ trình gửi Bộ Kế hoạch - đầu tư đề nghị thẩm định dự án đầu tư xây dựng
Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Nhiều chuyên gia khuyến cáo công trình hoành tráng này đang thực hiện theo quy trình ngược.
Dự án xây dựng Bảo tàng Lịch sử quốc gia có tổng mức đầu tư 11.277 tỉ đồng, chưa bao gồm chi phí dự án thành phần đầu tư xây dựng nội dung và hình thức trưng bày do Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch thực hiện. Bộ Xây dựng cho biết mục tiêu của dự án là xây dựng một bảo tàng hiện đại, có khoa học công nghệ tiên tiến với quy mô đầu tư, diện tích lớn để khắc phục những hạn chế về nội dung, diện tích, tính chất và quy mô nội dung trưng bày hiện tại, đáp ứng tốt việc bảo tồn, lưu giữ, sưu tầm, trưng bày hiện vật; vận hành, quản lý khai thác sử dụng và đào tạo; phục vụ nhu cầu tham quan, nghiên cứu khoa học, học tập, giảng dạy, phổ biến tri thức về lịch sử, văn hóa, khoa học của đất nước.
Dự án có bốn hạng mục chính gồm: tòa nhà chính; khu tưởng niệm danh nhân; khu trưng bày ngoài trời; hạng mục kỹ thuật phụ trợ, cây xanh, cảnh quan. Trong đó, tòa nhà chính được xây dựng trên khu đất hơn 20.000m2, diện tích sàn xây dựng gần 90.000m2, chiều cao tối đa 32,5m. Tòa nhà này có một tầng hầm và sáu tầng nổi, bao gồm kho lưu giữ hiện vật vô cơ và hữu cơ qua các thời kỳ, thời đại; không gian để trưng bày, tái hiện lịch sử, chuyên đề, sưu tập...; trung tâm bảo quản và phục chế; khu khám phá sáng tạo; hội trường, các phòng hội họp, hội thảo, chiếu phim phục vụ công tác nghiên cứu, học tập, tìm hiểu và giao lưu trao đổi kiến thức cộng đồng...
Khu tưởng niệm danh nhân có diện tích xây dựng khoảng 1.520m2, gồm nhà tưởng niệm đặt các tượng, danh sách tên danh nhân được tôn vinh và hiện vật của họ (nếu có).
Khu trưng bày ngoài trời sẽ trưng bày những hiện vật lớn; tái tạo không gian lịch sử; không gian văn hóa, kiến trúc đặc sắc; không gian hoạt động văn hóa, trình diễn.
Ðịa điểm xây dựng bảo tàng được xác định tại khu đô thị mới Tây Hồ Tây, huyện Từ Liêm, Hà Nội trong quy hoạch chi tiết xây dựng công viên Hữu nghị và Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Diện tích sử dụng đất của bảo tàng là 10ha, trong đó diện tích xây dựng công trình khoảng 30.000m2, diện tích trưng bày ngoài trời khoảng 30.000m2, diện tích dành cho hoạt động văn hóa cộng đồng khoảng 10.000m2, diện tích cây xanh, sân vườn, đường giao thông nội bộ khoảng 30.000m2.
Dự án đầu tư xây dựng công trình Bảo tàng Lịch sử quốc gia được Chính phủ giao Bộ Xây dựng làm chủ đầu tư. Chủ quản lý sử dụng và chủ đầu tư dự án thành phần (phần nội dung và hình thức trưng bày) là Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch. Thời gian thực hiện dự án được đề xuất từ tháng 11-2012 đến tháng 5-2016. Tổ chức nghiệm thu và bàn giao cho chủ quản lý sử dụng công trình từ tháng 7-2016.
T.PHÙNG

BẢO TÀNG LỊCH SỬ VIỆT NAM NGUYÊN LÀ MUSEE LOUIS FINOT XÂY NĂM 1926

 Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại Hà Nội hiện nay vốn là Bảo Tàng Louis Finot, thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ (Musée Louis Finot de l'Ecole française d'Extrême-Orient, Hanoi (EFEO)...

Do nhu cầu bảo tồn các hiện vật lịch sử nên EFEO đã xây dựng vào năm 1926 bảo tàng Louis Finot mang tên vị giám đốc EFEO thời bấy giờ.

 

LOUIS FINOT GIÁM ĐỐC EFEO

 

Trước sau, bảo tàng Louis Finot ngày ấy cũng như Bảo tàng Lịch Sử Việt Nam bây giờ đã tồn tại được 86 năm. Với thời gian ngót một thế kỷ, nước Việt Nam đã trải qua biết bao biến thiên… Với không gian hạn chế của tòa bảo tàng ngày nay làm sao có thể chứa đựng ào ạt những hiện vật của lịch sử để lại (chưa nói tới sự trưng bầy một cách khoa học).

Nên việc xây dựng một viện bảo tàng khác cho lịch sử Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu chủ quan, khách quan của nó là một việc cần thiết.

Những hiện vật, những sự kiện, các nhân vật lịch sử còn đang nóng hổi, không bảo tồn kịp thời để đến lúc nó nguội lạnh, thất lạc mới hối hả đi sưu tầm là một việc làm dại dột. Đừng để rơi vào tình trạng phải trục vớt những con tầu đắm mới có hiện vật trưng bầy.

Nhưng làm lịch sử với quan điểm nào? Có khách quan nhìn nhận phân tích không? Hay chỉ  như những chú ngựa kéo "xe đòn" bị hai miếng da che hai bên mắt, chỉ được nhìn một chiều và đi thẳng mà thôi. Dưới thời đại "Duy vật biện chứng" "Định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa"… E rằng các nhà nghiên cứu lịch sử dưới chế độ cộng sản, cũng khó bề hoạt động cho đúng chính kiến của mình.

Làm thế nào để bất kỳ khách tham quan nào, sau khi đi một vòng có thể khái quát được những nét chính của xã hội Việt Nam qua các giai đoạn, các thời kỳ, các chế độ mà không chỗ nào bị giản lược, bị che giấu, thậm chí bị xuyên tạc. Không đơn giản chỉ có "Cách Mạng" mà còn có phong kiến, có cả phản cách mạng nữa…

Victor Hugo đã nói về lịch sử:

« Lịch sử là gì? Là tiếng vang của quá khứ đến tương lai, là sự phản xạ của tương lai về quá khứ. »

Đó là tính khách quan, là thái độ trung thành với lịch sử.

Trong bảo tàng ngoài vị trí của lá cờ đỏ sao vàng, còn có cờ vàng đỏ vàng của thời Bảo Đại, còn có cờ của Quốc Dân Đảng, cờ Quẻ Ly thời Trần Trọng Kim, có cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa, cờ Xanh đỏ, sao vàng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng v.v… Có ảnh Cụ Hồ, ông Giáp thì cũng có ảnh Bảo Đại, Nguyễn Thái Học, thậm chí Nguyễn Hải Thần, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu v.v… Ai cũng có vị trí lịch sử của mình. Nếu không nó sẽ chỉ còn là Bảo tàng Lịch Sử Việt Minh chứ không thể là bảo tàng Lịch Sử Việt Nam nữa.

Háy làm như Wikipédia Việt Nam (Bách khoa toàn thư mở) đã làm và đang làm.

Chúng tôi, dân chúng Việt Nam. Trong và ngoài nước, đặt hết kỳ vọng vào các nhà nghiên cứu, các nhà làm sử Việt Nam, vì ngoài các ông ra còn ai vào đây nữa để gánh vác nhiệm vụ lịch sử này. Đừng vô cảm, vô tâm làm lãng phí hàng chục nghìn tỉ của dân chúng đang thắt lưng buộc bụng từng ngày.

Xin đừng đánh đàn theo kiểu mấy ông trong clip Video dưới đây:


CÓ CỤ NÀO ĐỂ Ý TRÁI BANH MẦU GÌ KHÔNG?

 

XIN HỎI TRÁI BANH MẦU GÌ?

LY CAFE SỮA HIẾM THẤY

 

CUỐI TUẦN MỜI NHAU LY CAFÉ

Thứ Bảy, 29 tháng 9, 2012

VUI CUỐI TUẦN

ÚM BA LA! CỦA TA HAY CỦA ĐỨA NÀO?

CHUYỆN CƯỜI DÀNH CHO NGƯỜI HẾT RĂNG
Trước khi đi tắm, vợ báo tin vui với chồng là nàng có thai. Chồng vô cùng vui mừng. Điện thoại anh hết pin.

Anh muốn cho người mẹ của anh ở quê nhà cùng vui với anh nên lấy tạm điện thoại của vợ nhắn tin (text) :
"Thu đã có thai" (vợ anh tên Thu).

Vui quá, quờ quạng thay vì gửi tin nhắn cho mẹ mình, anh đã bấm lộn cho tất cả mọi người trong danh bạ (address book) của vợ !
Kết quả thật bất ngờ. Điện thoại vợ rung liên hồi, báo có  những tin nhắn như sau.

Tin đầu tiên không phải của mẹ anh, mà là mẹ vợ:
-    "Sao nói là chồng không sinh được, con lại quan hệ với thằng người yêu cũ à?".

Anh rể nhắn:
-     "Cô tính làm gì bây giờ? Phá chịu không?".

Tiếp theo một người bạn thân nhắn tin:
-    "Chúng ta đã nửa năm không gặp nhau, xin cô đừng đổ lên đầu tôi!".

Đồng nghiệp nhắn:
-   "Không nhầm chứ? Mới 2 ngày mà đã chửa  rồi à?".

Cấp trên trả lời:
-   "Tôi cho cô 10 triệu, cô đi nghỉ ngơi xa một thời gian đi".

Khách hàng nhắn tin:
-   "Thôi được, đừng hù tôi, ngày mai tới nhà tôi, chúng ta sẽ ký hợp đồng".

Một số ẩn danh nhắn:
-   "ly dị chồng đi, chúng ta sẽ giữ đứa bé".

Một ẩn danh khác nhắn:
-   "Hôm đó còn có cả ông giám đốc nữa cơ mà, sao biết là của tôi?".

Và một người lạ khác nhắn:
-    "Đừng nói vớ vẩn, tôi đã làm phẫu thuật triệt sản rồi đâu có con được?".

Chồng lăn ra bất tỉnh.!!!!!!!!!!

NHỮNG VẬT NUÔI KHÔNG CÒN NỮA


HAI BỐ CON TCHIN VÀ SỚC
MÁO  
TÍT
AI CŨNG BẢO MÈO NGỒI GIỐNG CHỦ, CHỈ CÓ MỘT NGƯỜI NÓI: ÔNG GIỐNG NÓ THÌ CÓ.

NGHỆ THUẬT DÂN GIAN VIỆT NAM

TRANH ĐÔNG HỒ
Một làng bên hữu ngạn Sông Đuống
thuộc Phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Kinh Bắc xưa





















Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2012

PHIÊN CHỢ QUÊ


CHỢ NÔM CÁCH ĐÂY 90 NĂM
và BÂY GIỜ











CẦU ĐÁ LÀNG NÔM



Về chợ Nôm, ghé quán giữa chợ làm miếng đậu phụ nướng ướp nghệ vàng ươm, nóng hổi, chấm muối ớt, đưa cay bằng chén rượu Nôm trên 50 độ... chợt hưởng giây phút tĩnh lặng giữa phiên chợ ồn ào.

ẢNH GIA ĐÌNH CỤ PHÙNG NHƯ THĂNG

CỤ CẢ THĂNG LÀNG NÔM VỚI CÁC CON

CÁC BÀ CON GÁI

BÀ BA, BÀ HAI, BÀ CẢ, BÀ ÚT, BÀ TƯ

CỤ VỚI BỐN ÔNG RỂ, ÔNG ÚT ĐÃ NGOẠI BÁT TUẦN

 
ÔNG HAI, ÔNG BA, CỤ CẢ, ÔNG ÚT, ÔNG CẢ

Thứ Năm, 27 tháng 9, 2012

BÊN NỚ, BÊN NI

BÊN NỚ



Có tội hay không có tội ?

"Hạnh phúc không phải là thứ có sẵn, Nó đến từ chính hành động của bạn.
Tín ngưỡng của tôi rất đơn giản. tín ngưỡng của tôi là lòng tốt...."

Đức Đạt Lai Lạt Ma

Tôi thật không biết phải bắt đầu từ đâu để câu chuyện đời l

Tôi thật không biết phải bắt đầu từ đâu để câu chuyện đời lộn xộn của mình có được một chút ngăn nắp để bạn hiểu tôi hơn. Thôi thì bắt đầu vào một ngày nắng đẹp, tôi bước ra khỏi toà án Saigon với cái giấy ly dị trên tay. Tôi có một trai và một gái và quan toà đã rộng lượng xử cho tôi được trọn quyền giữ cả hai với điều kiện là không nhận được chu cấp từ người chồng. Tôi hoan hô quan toà cả hai tay. Đó là năm 1969.

Bà chị tôi có hãng thầu cung cấp dịch vụ hớt tóc, giặt quần áo, bán hàng kỷ niệm cho quân nhân Mỹ tại Việt Nam và hàng ngàn xe đá để hãng RMK làm phi trường. Đó là một công cuộc làm ăn lớn lao có tới vài trăm nhân viên nên chị nhận cho tôi theo làm để nuôi con. Do đó tôi gặp Ron, người chồng hiện tại.

Bạn ơi, không biết tôi đã tốn bao nhiêu nước mắt cho cuộc hôn nhân nầy. Không biết tôi đã nhận được bao nhiêu lời sỉ nhục khi đi sánh đôi với người chồng Mỹ tại Việt Nam. Nếu phải đếm hết những danh từ thô bỉ, những ánh mắt chê bai, những đối xử khinh bạc của bạn bè, của những người quen biết cho đến những kẻ qua đường vì tôi "lấy Mỹ" thì chắc tôi phải biến thành con rết khổng lồ với cả ngàn chân tay mới đếm hết nổi. Thôi thì chẳng qua là cái nghiệp. Chắc mình đã dè bỉu, chê bai bao nhiêu là người ở những kiếp trước nên kiếp nầy nhận lại "gậy ông đập lưng ông" thôi mà.

Mỗi lần bị "tai nạn" như vậy, tôi giả vờ phớt tỉnh. Những dòng nước mắt tủi hổ cứ chực tràn ra. Ông xã cứ hỏi là "họ nói gì vậy?", tôi thì cứ ai biết đâu, họ dùng danh từ em không hiểu!". Nhưng ông xã thì biết vì anh có rất nhiều nhân viên Việt Nam làm việc cho anh và chắc họ đã giải nghĩa cho anh hiểu địa vị của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội khi họ vô phước kết hôn với ngươì Mỹ.

Sau khi anh hiểu được, tôi không bao giờ quên được ánh mắt của anh nhìn tôi trong những lần "tai nạn" đó. Đôi mắt anh chứa đầy những biết ơn, những chia xẻ, những đau thương, những căm giận, những cảm thông.. Anh cầm tay tôi nói: "Thật là không công bình cho em. Anh rất biết ơn em. Sự chịu đựng những nỗi nhục nhằn của em làm tan nát tim anh. Anh cảm thấy không xứng đáng với sự hy sinh của em." Tôi chỉ nói nhỏ: "Cả hai, em và họ đều là nạn nhân, mỗi người mỗi cách. Có phải chúng ta đã hứa là sẽ cùng chung chịu những niềm vui và nỗi khổ trên đời không? Vậy đó không phải là sự hy sinh. Đó chỉ là sự chia xẻ."

Và tôi đã sát cánh cùng anh nổi, chìm trong cõi ta bà, trong nụ cười khi gia đình xum họp, trong nuớc mắt khi một đứa con sớm vội ra đi, trong thành công, trong thất bại suốt bốn chục năm qua.

Rồi Trời Đất nổi cơn gió bụi. Năm 1975 tôi dắt díu các con qua Mỹ sống tại California. Bà mẹ chồng ở tận Boston qua CA thăm cháu nội và dâu lần đầu tiên.

Mẹ ruột kẹt lại quê nhà, mẹ chồng ở kề cận, thôi thì hãy vui với hiện tại và những gì mình có. Gạo trồng ở Việt Nam hay trồng ở Mỹ thì cũng nấu thành cơm. Mẹ ruột hay mẹ chồng thì người đàn bà đó cũng đã thương yêu và dưỡng nuôi người mình yêu dấu. Bà hỏi chớ các cháu đã được rửa tội chưa? Tôi nói ngắn gọn "Dạ chưa. Con đạo Phật." Bà mỉm cười không nói gì và không bao giờ nhắc lại.

Hình như người Mỹ có tâm hồn rộng rãi hơn. Bà thường hay lục lọi và gởi về cho cháu nội những quyển thánh kinh rất cũ của gia đình. Tôi nhận và trân trọng giao lại cho các con. Mẹ chồng gần với con dâu hơn người con ruột.

Thời gian qua, một hôm thằng con cả báo cho mẹ biết là nó muốn cưới vợ. Mình đã già rồi mà không hay bạn ơi. Khi nghe con trình bày mọi điều, bà chị la làng chói lói. Trời ơi, nó là con trai lớn nhất mà theo đạo Chúa thì lấy ai mà thờ phượng em? Bạn ơi, bạn nghĩ sao? To be or not to be? Nói Yes, con cứ tiếp tục lo hôn lễ hay nói No, No Way.

Hừm, thờ phượng là nó sẽ nhớ tới ngày mình theo Phật, mua một mâm đủ cả heo quay, gà vịt, có cả bia rượu, bưng lên bàn thờ để một tiếng đồng hồ rồi dọn xuống mời bạn nhậu? Hay là nó cúng mâm chay nhưng lại không ăn? Hay là nó tới chùa nhờ thầy đọc một thời kinh? Thầy lo đọc, nó lo nhớ tới cái đầu gối hơi đau vì quì lâu! Hay nó dọn một cái bàn thờ trong nhà, chưng cái hình mình lên. Có ai đó hỏi con nó trưng hình của ai vậy thì thằng cháu nội nhìn hình và nói "I don't know" !

Chỉ còn cách hỏi nó.

Cô đó hiền không? Dạ hiền. Cô đó giỏi không? Dạ giỏi. Cô đó thích săn sóc con cái, nhà cửa không? Dạ thích. Cô đó thương con không? Dạ thương. Vậy thì Yes, con ơi, Yes. Mẹ chỉ cần thấy con được hạnh phúc, an vui. Mẹ tin vào sự khôn ngoan và lựa chọn của con. (Cho con học bao lâu chắc con không ngu đâu, phải không?).
Vợ chồng con thương yêu nhau và tử tế với Mẹ khi Mẹ còn sống là con đã "thờ phượng" Mẹ rồi. Trong con đã có dòng máu của Mẹ. Con làm một người chồng tốt, một người cha tốt, một con người tốt là con thờ phượng Mẹ đó, phải không? Bạn ơi, bạn có thấy tôi quá "văn minh" không? Quá... quá... tiếng gì hả mà người Mỹ thường hay chỉ mấy ông nghị viên trong đảng dân chủ đó? À à, quá "liberal" không?

Vậy là tôi có hai thằng con theo đạo Chúa của vợ và năm đứa cháu nội biết Phật là Budha chớ chẳng biết Nam Mô. Quên cho bạn hay là tôi đã không rửa tội hoặc bắt các con theo đạo nào hết. Tôi để cho chúng tự do chọn lựa khi chúng đến tuổi trưởng thành (hoặc "được" vợ dẫn dắt). Tuy nhiên tôi cũng thường đem các con đi chùa khi chúng còn nhỏ và mỗi khi tết tôi đều dạy chúng lạy bàn thờ Phật và bàn thờ tổ tiên. Cho đến bây giờ vẫn vậy. Phải lạy bàn thờ. Đó là điều kiện duy nhứt tôi đòi hỏi gia đình các xuôi gia trong ngày cưới, dù họ là đạo nào. Tôi kính trọng tất cả các đấng dẫn dắt linh hồn.

Mỗi khi gia đình tụ họp tại nhà thằng con cả, nhằm ngày ăn chay, tôi luôn có ít nhứt một món chay rất ngon do con dâu Công giáo nấu. Tôi biết ơn chúa Jesus quá đỗi vì con dân của Ngài quả là một người đầu bếp giỏi và là một đứa con dâu rất hiếu thảo.

Thế là tôi trở thành minority, có nghĩa là thiểu số trong gia đình tôi. Ông xã, hai thằng con, hai cô dâu, năm đứa cháu nội, tất cả là mười người con Chúa. Một đứa con gái và chồng cùng ba đứa con tin tưởng cả Phật lẫn Chúa. Ngày lễ Giáng Sinh và cuối tuần thằng cháu ngoại mười hai tuổi đi đờn violin trong nhà thờ. Khi về nhà ngoại thì vô lạy Phật và... ngồi thiền!

Thằng con út thì , bạn có thể gọi nó là người vô tôn giáo, khuyên các cháu của nó không nên mỗi chút mỗi đổ thừa cho Chúa và khi xưng tội thì phải nhớ chừa cái tội đó đừng lập lại và nhận xét rằng thuyết nhân quả của nhà Phật rất hay nhưng đôi khi Phật tử lạm dụng thuyết nhân quả để chê đè người khác và vì thế làm cho người ta đau khổ. Bạn thấy nó đúng không? Nó mới hai mươi bảy tuổi và đôi khi nó nói chuyện đạo Phật làm tôi cũng ngẩn ngơ. Nó nghiên cứu đạo Phật bằng tiếng Mỹ. Tôi học Phật bằng tiếng Việt. Không biết có khác nhau nhiều không?

Nói cho bạn mừng dùm là dù thiểu số nhưng đạo Phật trong nhà tôi vẫn thịnh vượng. Tôi chưng bày tượng Phật tùm lum, trong vườn hoa đằng trước, trong sân đằng trước, trong vườn hoa đằng sau, trong sân đằng sau, ngay giữa vườn, trong luống hoa, giữa bụi lan... Bàn thờ Phật ở phòng khách, bàn thờ Phật trong phòng thờ, tượng Phật trên đàn dương cầm, tượng Phật trên đầu ti vi. Đây cũng là một tội ăn hiếp người (chồng) quá đáng, chắc kiếp sau lại phải trả thôi.

Rồi cách đây hai tháng, khi anh và tôi cùng ở tuổi bẩy mươi, phải bạn ơi cái tuổi 'thất thập cổ lai hi' đó, thì có một người quen từ Việt Nam qua chơi. Người nầy đã đi tu Chúa khi còn con gái mười bẩy tuổi và hiện nay năm mươi bẩy tuổi và đã được lên chức Mẹ Bề Trên. Trong khi trò chuyện, Sơ (xin tạm gọi như thế cho gọn) khám phá ra là chồng thì đạo Chúa chánh gốc (quên nói cho bạn biết là bố chồng mình gốc gác người Ý), đã được rửa tội, đã hưởng hết các phép ban ơn v.v.. mà lại đi cưới một người vợ ngoại đạo, lại còn không bắt vợ theo đạo của mình. Thế thì khi chết sẽ không được vào nước Thiên Đàng, sẽ không được Chúa tha thứ, sẽ xuống địa ngục v.v.. Và Sơ chỉ cho tôi nên đi kiếm Cha để xin Cha làm phép, xin Chúa tha tội cho ông xã để ông xã được trở về với Chúa.

Tôi hoảng hồn nghĩ mình thật là tội lỗi, bấy lâu nay chỉ lo cho linh hồn của mình, còn người bạn đời thì mình lại thờ ơ, may mà có Sơ nhắc nhở. Tôi bèn dịch lại những lời Sơ nói. Ông xã vẫn làm thinh (lại cho bạn biết anh là người ít nói nhất thế gian, bạn có biết tại sao không? Vì chị vợ đã nói hết thời gian rồi, anh chồng làm gì còn chỗ và thời gian để nói nữa, đã cưới nhau bốn mươi năm rồi, phải quen tánh quen nết chớ, phải không bạn?). À hình như anh có lầm thầm cái gì là anh chưa từng bao giờ bỏ Chúa thì tại sao phải trở lại? Tôi thì sợ hãi nên thúc giục anh mau đến tìm Cha.

Bạn có thấu hiểu được nỗi đau lòng của tôi không? Chắc là không. Vì để hiểu được bạn phải ở trong hoàn cảnh nầy và tôi thì không muốn cho bất cứ ai vướng vào cái vòng tục lụy nầy hết. Giống như cái ông gì đó (trí óc tôi lúc nầy chậm chạp quá, đã quên béng tên ổng) đang làm quan lớn với đầy đủ vợ đẹp, con khôn, quyền cao, chức trọng thì bỗng giựt mình tỉnh giấc Nam kha thấy mình vẫn đang ngồi dưới đất, vợ con không, lầu đài không, tiền bạc không, quan chức không.

Giống như bạn, tôi đã "cho anh cả cuộc đời", những tưởng mình đã cùng ai chung chịu nhục nhằn, hạnh phúc, đã cùng ai nở nụ cười, lau nước mắt, đã cùng ai ngẩng mặt, cúi đầu... Ngờ đâu bừng con mắt dậy thấy mình tay không! Mình đã đẩy người ta xuống địa ngục, mình là nguyên nhân để người ta xuống địa ngục. Bạn khuyên tôi phải làm sao? Người ta xuống địa ngục chưa thì tôi không biết, mà tôi thì đã ở trong đó rồi. Lòng tôi tan nát, bạn ơi. Tôi phải đọc tụng kinh gì hả bạn? Lương Hoàng Sám? Thủy Sám? Mà tụng thì ăn thua gì! Nếu tụng mà hết được tội đẩy người xuống địa ngục thì tôi nguyện đọc mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút , từ đây cho đến hết cuộc đời.

Ngày hôm sau khi ngồi ăn cơm, dưới cái diã, tôi thấy một cái bao thơ, giống như cái card chúc tết hay chúc sinh nhật vậy. Tôi ngạc nhiên vì không phải tết, cũng chẳng là sinh nhật. Anh chẳng nói gì. Tôi mở card ra đọc những dòng chữ có thể dịch ra Việt ngữ như sau:

"Nếu phải xuống địa ngục và vĩnh viễn bị cấm cửa thiên đàng thì anh sẵn sàng và hạnh phúc chấp nhận. Ngày em nhận lời làm vợ anh là ngày Chúa đã ban ơn phước cho anh và chấp nhận anh vào cõi Thiên Đàng và anh đã ở Thiên Đàng từ dạo đó, nay sao lại còn phải xin xỏ để trở vào? Anh không ăn năn. Anh không ân hận. Anh không van xin. Anh chắc rằng Sơ đã không nhìn thấy những giọt nước mắt của em đã đổ ra cho anh, vì anh, vì hạnh phúc của anh, vì tội lỗi của anh. Nếu thấy thì anh lại tin chắc rằng Sơ sẽ bảo anh:

“ Con hãy cám ơn Chúa đã cho con gặp người vợ ngoại đạo nầy'. Em hãy yên lòng, đừng thúc giục anh tìm Cha. Chúa rất nhân từ và thông cảm. Anh đang ở Thiên Đàng."

Đọc xong, tôi ngẩng lên nhìn anh. Tôi lại để cho nước mắt chảy ra thấm ướt tờ thư. Đã lâu rồi tôi không khóc. Lần nầy tôi không cố ngăn lại. Khóc được cứ khóc bạn ơi. Chỉ sợ rằng mình không khóc được và không được khóc!

Bạn có thấy dị không khi một bà già bẩy mươi tuổi còn khóc được vì một lá thư.. (có thể gọi là thư tình không bạn?). Không, đây không phải là thư Tình! Đây là thư Nghĩa! Tình yêu sôi nổi với dục vọng, với ghen tương, với giận hờn đã qua lâu rồi. Đây là sự thương yêu, nâng đỡ, dắt dìu nhau của hai con người đang đi vào đoạn cuối của cuộc đời mà không lãng quên những hứa hẹn ở buổi ban đầu. Đây là Nghĩa Vợ Chồng. Dù cho bạn có thành hôn với người Việt Nam, người Mỹ, người Trung Quốc, người Đại Hàn, người Pháp, người da đen, da trắng, da màu... thì nó vẫn tồn tại và rực rỡ trong tâm bạn.

Tôi hy vọng mãnh liệt rằng Chúa sẽ không bắt tội anh vì tôi tin rằng anh đã sống giống như ý Chúa: Thương Yêu, Trung Thành và Nhân Ái.

Đây là một phần câu chuyện đời lộn xộn của tôi và tôi xin chia xẻ cùng bạn với tất cả trái tim tôi. Có tội hay không có tội? Anh đã đi trật đường của Chúa dạy? Anh đang từ bỏ Thiên Đàng và trên đường xuống địa ngục? Anh thật không biết. Tôi là tên ác quỷ đang đẩy người vào chốn tối tăm? Tôi thật không biết. Chúng tôi chỉ biết cầu xin Chúa và Phật cho chúng tôi được có mặt bên nhau những khi hoạn nạn, được giúp đở nhau những lúc vấp ngã, được nấu cho nhau chén cháo trong lúc ốm đau, được nắm tay nhau mỉm cười khi mở cửa nhà đón đàn con cháu.

Bạn ơi, tôi không cần phải có bàn thờ và anh thì không cần phải kiếm Cha để rửa tội. Tôi vẫn là một Phật tử thuần thành và anh vẫn làm dấu thánh giá. Chúng tôi không quá "liberal" phải không bạn ? Thiên Đàng và Niết Bàn của chúng tôi có nghĩa là " in the here, in the now" như Sư Ông Nhất Hạnh vẫn nói. Không biết chúng tôi có hiểu đúng ý của Sư Ông không?

Hai chúng tôi Tội Lỗi và Hạnh Phúc ngang nhau. Cả Phật, cả Chúa đều rất Bác Ái và Công Bằng, Bạn đồng ý không? 



Le Hoa Wilson

BÊN NI 

 
MỘT CUỘC CHIA LY,
NHƯ NGÀN VẠN CUỘC CHIA LY.

Mỗi năm vào độ Tết đến xuân về, tôi lại có dịp trằn trọc với nỗi niềm đoàn tụ.
Trước năm 1946, gia đình tôi ngụ tại Nhuệ Gia Trang, một khu nhà nhỏ có vườn tược bao quanh bên bờ sông Nhuệ. Bố làm công chức, trông coi việc tế lễ ở Quốc Tử Giám, Xuân Thu nhị kỳ. Mẹ có sạp tơ lụa hàng Vân, ngồi ngay tại Chợ Đơ giữa thị xã Hà Đông. Trang trại đó hưởng ứng tiêu thổ kháng chiến nên đã bị san bằng. Gia đình tản cư về quê ngoại Hữu Châu, Thanh Oai, Hà Đông, rồi về quê nội Lạt Sơn Kim Bảng, Hà Nam.
Rời gia đình ra đi vào giữa năm 1947, tôi tham gia công tác vào Ban Kinh Tài Khu Ủy II, nhưng vẫn qua lại gia đình, chỉ từ sau 1948 mới đứt hẳn liên lạc. Chiến sự lan rộng ra, tôi ở vùng ráp gianh Phú Xuyên – Kim Bảng - Ứng Hòa, 1950, chuyển từ Ủy Ban Hành Chính Kháng Chiến khu XI (Khu Đặc Biệt Hà Nội) sang Tư Lệnh III, đang là Cán Sự 5 thành anh Binh Nhì. Gia đình thì đang tản cư tại vùng Chợ Bút, Yên Mô, Ninh Bình, bố dạy Văn Việt cổ ở Trung học Nguyễn Thượng Hiền. Em gái thứ ba của tôi ra đời ở đấy nên mang tên Diệu Bút
Theo chân Trung Doàn Ký Con nay đây mai đó, tôi ngày càng xa dần gia đình. Cuối năm 1950, kéo quân về đánh ở vùng Kim Bảng, Hồi Giộc, Gốm, Phương Khê Mã Não, không biết rằng, những ngày đó ngay ở vùng Sở Kiện cuối Kim Bảng, đầu Thanh Liêm, cách nơi xảy ra chiến trận chưa đầy 10 cây số, bố tôi đang tá túc ở đó chờ “rinh tê” về Hà Nội chữa bệnh. Bố vào trước nằm ở nhà thương Robin (bệnh viện Bạch Mai bây giờ). Mẹ và 3 em gái vào sau. Thế là từ đó, gia đình ở trong vùng địch tạm chiếm, con ở ngoài vùng tự do, xa cách bởi bức trường thành phân chia ranh giới thù địch. Gia đình “vào thành” ngoài lý do bố ốm, còn cái nguyên do bất khả kháng là gia đình không có đồng vốn giắt lưng cũng như tấc đất cắm dùi. Phương tiện sinh sống thì hoàn toàn không có. Vốn liếng nằm cả trong đầu, thua hẳn anh bần cố nông vô sản. Bố tôi cộng tác với địch (sau này mới biết) trên mặt trận Văn Hóa. Ông cùng nhóm Nguyễn Tường Phượng, Phạm Phan Côn và một số trí thức khác thành lập Hội Tân Văn Hóa, nhằm chấn hưng văn hóa Việt Nam. Với vốn hiểu biết của mình ông liên tục cho ra đời nhiều tác phẩm, trong đó có cuốn Lược sử các tên phố Hà Nội, còn hữu dụng đến bây giờ và một số tác phẩm văn học cổ Việt Nam do nhà xuất bản Tân Việt ấn hành với bút danh Thi Nham. Thời gian đó (1951 – 1953) cả nhà sống được nhở vào cái đầu của ông bố, tất nhiên cũng còn do sự yểm trợ của những tấm lòng vàng mả ông ghi chép từng đồng từng hào trong cuốn sổ “Tấm Lòng Vàng”. Ba tháng lĩnh gộp một lần lương hưu do anh Đế Quốc Pháp nó trả. Mẹ thì trông coi dậy dỗ các em là chính nhưng cũng phải làm thêm, khi thì mở hàng phở ở phố Kim Mã, khi thì chạy buôn cau đường Nam Định – Hà Nội, may mà chưa dính mìn dọc đường như các bà bạn hàng khác.
Đầu năm 1953, bố tôi đi chơi vùng Hồng Gai về thì bị ốm, trong lúc hấp hối, ông dục dã người nhà gọi tôi về. Khi đó tôi đang cùng đồng đội tham gia chiến dịch Thượng Lào, nhưng giá có ở ngay Văn Điển hoặc Đông Anh cũng làm thế nào mà về được. Đó là lòng người bố khi sắp sửa vĩnh viễn xa con, đã xúi dục ông nói thế mà thôi. Đám tang bố tôi do bạn bè của ông lo liệu chu đáo, chứ mẹ tôi một nách ba con nhỏ thì làm sao xoay xở được. Có một thằng con lớn thì nó đang còn chiến đấu với sự nghiệp cao cả, với “chủ nghĩa” của nó.
Tháng 12 năm 1954, về đến Hà Nội, cùng một lúc tôi nhận được cả gói, tin mẹ và các em đi Nam và một ngôi mộ bố ở Nghĩa trang Phúc Thiện (nơi Công viên Thủ Lệ bây giờ).
Mấy năm liền, bưu thiếp gửi vào Nam mà chẳng thấy hồi âm, ngoài này, lâu lâu anh bộ đội lại vác xẻng lên dọn cỏ tu sửa mộ bố, rồi cũng chẳng bao lâu, cái nấm đất đã mua vĩnh viễn ấy lại bị thu hồi cho mục đích lấy cái phục vụ đời chết ấy, phục vụ cho đời sống. Cái khác chứ không phải cái nấm mồ cần đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, nên nắm xương tàn của nhà văn Thi Nham được xúc lên Yên Kỳ, Bất Bạt. Cái địa danh ấy đối với anh lính sức dài vai rộng không nghĩa lý gì nhưng nó thật thấm thía khi vợ già từ miền Nam ra thăm mộ chồng, các con gái từ Nam ra viếng bố. Cuối cùng tôi cũng đành bứng cụ lên, thiêu cốt mà đóng lọ gửi vào chùa Phúc Khánh gần Ngẫ Tư Sở cho tiện thăm viếng.

Mẹ và các em tôi khi vào đến miền Nam, tá túc người anh con cô con cậu tại khu Bàn Cờ một thời gian ngắn thì bà chuyển lên Ban Mê Thuột, cũng vẫn dựa vào bà con quen biết, đùm bọc nhau tại khu Dinh Điền lớn nhất miền Nam này. Các em tôi vẫn được một tay nẹ nuôi cho ăn học. Bà nấu cơm tháng và may vá cho những ai có nhu cầu một tấm áo bông, một vạt áo kép với đôi tay cần cù khéo léo của bà. Rồi cũng lại theo chân họ hàng đi cư về Nha Trang cho các con tiện ăn học, đứa em gái lớn của tôi học trường Sư phạm Quy Nhơn. Tự do mưu cầu, tự do kiếm sống nên mẹ tôi đã tần tảo kiếm được mảnh đất ở đường Bạch Đằng có nhà và vườn rộng rãi, ở không hết, cho thuê bớt một nửa. Theo ngọn gió mưu sinh đưa đẩy, bà lại bán nhà đất ở Nha Trang để theo vào với các em tôi dạy học ở Cam Ranh. Ngôi nhà mua trả góp do Đại Hàn xây ở khu chung cư các em tôi còn ở đến bây giờ. Hồi mới giải phóng mấy anh ở Rờ về đã chấm cả dãy nhà, trong đó có cả ngôi nhà 101 Duy Tân là nơi mẹ và các em tôi sinh sống, thây kệ những chứng từ mà bà đã đưa trình rằng mua góp đã trả hết. Được tin vậy, tôi bèn gom hết huân chương gửi vào cho các em tôi làm “bùa” trưng giữa nhà, may mà yểm được lũ “Ma cô” “Ma rừng” quấy phá.
Bốn mươi năm lưu lạc chỉ để sống còn chứ chẳng có mục đích gì cao cả, cuối cùng vào một ngày năm 1994 ấy, mẹ tôi đã từ căn nhà mang số 101 đó ra đi về cõi vĩnh hằng, về với ông chồng đã ra đi trước bà hơn 40 năm về trước. Nghe tin mẹ mệt nặng tôi đã từ miền Bắc đi phép vào, túc trực bên giường mẹ cả tuần lễ, rồi khi vừa quay ra, thì từ Hà Nội nghe tin bà qua đời. Lúc đó tôi đã gục ngã vì một cơn ốm nặng (huyết áp 60/45) nên mọi việc tang lễ bà đều do hai cô em gái tôi và bà con thân hữu lo liệu. Vào dịp 49 ngày, tôi mới vào được viếng mộ bà. Năm qua 2009 tôi có dịp ghé thăm lại mộ mẹ thì thấy mộ bà đã lọt thỏm gữa muôn vàn ngôi mộ đàng hoàng hơn, to đẹp hơn gấp mười lần, nên chợt ái ngại, liệu khi hai cô em tôi đã nằm xuống thì liệu các con cháu có tìm ra được mộ bà?
Người em gái thứ hai của tôi trước đây lấy chồng ở Sài Gòn, chồng làm giảng sư đại học và bác sĩ lý khám (pháp y, theo ngôn từ miền Bắc) Sài Gòn Gia Định. Hai vợ chồng ở trong con hẻm đường Phan Thanh Giản. Họ được một con gái, năm 1975 nó mới chừng lên ba. Bố là bác sĩ, mẹ làm sở Mỹ. Cũng chỉ vì dính tới sở Mỹ nên sau này em tôi không thể kiếm được ra việc gì, từ trông trẻ đến dạy mẫu giáo. Chồng thì có nhẽ vì sợ chế độ mới, nên tỏ ra rất chăm chỉ, trực thêm ở bệnh viện bất kể đêm ngày. Ngay cả khi được tham gia hội nghị ở Hà Nội cũng xin nhường người khác. Em gái tôi thì thất vọng và chán chường đến cực độ, nên khi được phía Hoa Kỳ cưu mang, nó đành từ giã mảnh đất đã không thừa nhận nó mà đem cả chồng con sang nương tựa xứ người. Hiện nay con gái đã đi làm hai vợ chồng đã nghỉ hưu, vẫn vò võ phương xa (Florida), chưa một lần dám nghĩ về thăm quê cha đất tổ, mảnh đất mà ở đó một thời đầy rẫy tai ương rình rập.

Thế là bốn anh em tôi, đứa sinh ở Hà Nam, năm 1932, đứa sinh ở Hà Đông, năm 1944, đứa sinh ở Hà Nội 1946 và đứa sinh ở Ninh Bình (1948) Hiện nay sống ở thế chân vạc, cái thế mà theo vật lý là thế vững vàng nhất, vẫn chưa thể gom lại làm một vì gom lại mất thế cân bằng thì khéo nó đổ kềnh ra mất. Thôi đành số phận là thế, thống nhất, đoàn tụ là hạnh phúc của người khác còn cái mệnh của chúng tôi thì nhân không thắng được thiên, đành rằng hai cô em gái ở vậy (không chồng con) thì trông mộ mẹ ở cực nam Trung bộ. Người em gái với gia đình nửa Mỹ, nửa Việt thì ở bang Florida bên kia đại đương, còn người anh cả là tôi thì cứ yên tâm ôm mả bố nơi đất bắc. Chúng tôi đều tồn tại, đều nghe thấy nhau, đều nhìn thấy nhau nhưng trời không cho đoàn tụ. Liệu có cách gì không hỡi cô Thu Uyên, người đã có công đem  đoàn tụ cho nhiều số phận. Hỏi thì cũng hỏi thế thôi, chứ anh thừa biết với phi vụ này thì cô em cũng “bó tay chấm com” thôi.
Một cái gia đình thuần Việt xa cách nhau đã hơn 60 năm, nó đã chai lỳ, thành vết rồi, tốt nhất đừng tìm cách tháo gỡ nữa nếu không muốn làm nó rạn vỡ thêm.
Đó cũng là một nét phổ biến của cuộc đấu tranh ý thức hệ trên mảnh đất Việt Nam này. Âu là thế!



VĂN HỌC PHÍA BÊN KIA


Cái duyên Nam Bắc
Nguyễn Hữu Huấn   2010/10/30 
Xin các mợ BắcKỳ chớ có buồn vì: không thể vơ đũa cả nắm, chỉ có phần nào thôi.

ẢNH MINH HỌA

Khi ngồi viết những giòng chữ này thì vợ cháu đang ngủ say sưa trên giường. Nhìn đôi chân dài thườn thượt của bà thò ra khỏi chăn, tự nhiên cháu bật cười.
Thì ra vợ cháu cũng thuộc loại…chân dài ra phết, cao xấp xỉ 1,70 mét chứ chẳng phải chơi. Năm ngoái gặp lại đám bạn cũ cùng binh chủng, trong lúc chụp ảnh chung bỗng có thằng la lớn : “Chúng mày ơi ! đứng bên cạnh bà này chắc ông phải kiễng chân lên mời xứng!“, làm vợ cháu ngượng chín người.

Nghe nói bên Việt Nam bây giờ người ta tung hô tán tụng “những cô gái chân dài“ dữ lắm, làm phim, lên ảnh, quảng cáo rùm beng, làm các cô cứ tưởng mình là cái rốn của vũ trụ không bằng.

Có điều lạ là hầu như các mợ toàn là gốc miền Bắc, nói năng giọng Bắc, nhìn đời với con mắt người Bắc và cư xử thì cứ “tự nhiên như người Hà Nội“.(Bật mí cho các cụ nhé: bây giờ thì đa số các mợ Hà Nội chính gốc đã thi nhau làm “con chim đa đa“ bay qua xứ khác lấy chồng xa hay đi kiếm cơm hết ráo, còn lại toàn là gốc Hà-Nam-Ninh hay Thanh-Nghệ-Tĩnh lên Hà Nội lập nghiệp).

Hay là ông Trời sinh ra người càng ở vùng phương Bắc thì da càng trắng, mũi càng cao và chân càng dài, cứ nhìn mấy ông Tây bà Đầm là biết ngay.

Thế nhưng ”bà già chân dài” vợ cháu lại là dân Nam kỳ tuốt luôn tận phương Nam, là thứ Nam kỳ chính hiệu con nai vàng, quê Cái Bè, nội Cái Răng, ngoại Cái Dồn. Hoá ra “mũi cao, chân dài“ đâu phải độc quyền của các mợ Bắc Kỳ 75, các mợ nhờ “tàn dư đế quốc“ nên chỉ mới xuất hiện sau này thôi, chứ ngay trong „thời kỳ chiến tranh“ cách đây mấy mươi năm thì “mũi cao, chân dài“ như Nam kỳ vợ cháu đã nhởn nhơ đầy đường. Đúng là một cọng giá “thời kỳ chiến tranh“ vẫn hơn một gánh rau muống “thời kỳ hoà bình đổi mới “!

Bố mẹ cháu sinh cháu ra tại miền Bắc, học hành và lớn lên cùng với gia đình trong miền Nam, để rồi trưởng thành tận ngoài miền Trung. Từ những tính chất của ba miền đã hợp lại tạo nên cháu thành một thứ “hẩu lốn“: “như canh chua nấu với...rau muống, giá sống ăn với...bún riêu, nhậu bia với ché mà lại chấm với ...xì dầu". Thế nhưng cái bản chất Bắc kỳ vẫn là cái cốt lõi trong con người cháu từ lúc sơ sinh, vẫn Bắc kỳ rau muống mắm tôm, Bắc kỳ truyền thống, Bắc kỳ muôn thuở...Nhưng ông Trời oái oăm lại sai ông Tơ bà Nguyệt xe duyên cháu làm thằng tù khổ sai chung thân cho một bà vợ Nam kỳ quốc. Lạ thật ! Duyên hay nợ đây Trời!

Hồi còn bé, thú thật cháu chẳng ưa gì Nam kỳ. Còn ghét, còn hận nữa là khác. Chuyện cũng dễ hiểu thôi : lần đầu cắp sách đến trường tiểu học Bàn Cờ ở quận 3, Sài Gòn, chỉ có cháu với một thằng nhô nữa là Bắc kỳ. Thằng này có hàm răng đưa hơi xa ra phía trước, mà văn chương Bắc kỳ gọi là “vẩu“, còn Nam kỳ gọi đơn giản và rất tượng hình là cái “bàn nạo dừa“. Bố nó (không vẩu tí nào) rất thân với bố cháu (cũng chẳng có bàn nạo dừa) vì cả hai gia đình cùng đi chung chuyến tàu “há mồm“ vào Nam năm 54.

Hai thằng Bắc kỳ con nhất định ngồi cạnh nhau tạo thế liên hoàn “dựa nhau mà sống“ trong cái lớp học 27 trự Nam kỳ con. Bọn chúng hè nhau trêu chọc, ăn hiếp hai đứa chúng cháu. Mỗi lần ra chơi hai thằng Bắc kỳ con luôn tìm chỗ ít người mà đứng để khỏi nghe bọn Nam kỳ đọc thơ chọc quê chửi bới. Thằng Vọng, đứa đầu xỏ và to con nhất đám (bây giờ đang ở Canada) leo lên cây vú sữa giữa sân, đọc thơ rang rảng:

"Bắc kỳ ăn cá rô cây
Ăn nhằm lựu đạn...chết cha Bắc kỳ "

Một thằng khác sẵn giọng phụ họa:

"Có cái thằng nhỏ nó đao làm sao
Lỗ đ. nó dính cái cọng rao,
Người ta ai mà kỳ như dzậy ?

Thế là cả bọn đồng loạt chỉ ngay vào bọn cháu rồi rống lên: "Thôi rồi ! Bắc kỳ, Bắc kỳ!”

Cháu tủi thân lắm ! Ôi thôi ! buồn da diết, buồn vô biên, buồn phát nghiền !

Về nhà hỏi mẹ tại sao gia đình mình lại vào đây làm quái gì để chúng nó trêu con suốt ngày. Mẹ cháu rướm nước mắt, xoa đầu cháu giải thích đơn giản:

- Tại vì người ta đánh nhau quá nên gia đình mình phải "ri cư" vào đây con ạ ! Thôi chịu khó đi con, mẹ biết làm sao bây giờ !

Nào đâu đã hết, chúng nó còn hè nhau tụ tập trước cửa nhà cháu. Mẹ cháu cầm chổi lông gà ra đuổi. Chẳng đứa nào sợ, trái lại còn tru tréo to hơn. Chợt thấy hàm răng của mẹ cháu nhuộm đen ngòm và bóng loáng, thế là chúng nó cứ thế mà gào:

Bắc kỳ ăn cá rô cây
Ăn nhằm cục c. , hàm răng đen thùi

Trong gia đình, chỉ có bố cháu là chẳng thằng Nam kỳ con nào dám giỡn mặt. Có lẽ nhờ khuôn mặt có oai hay nhờ đôi mắt nghiêm khắc của ông, mà chúng sợ một vành không dám trêu chọc một lời ?

Ngày tháng qua mau, cứ thế mà đám Bắc kỳ "ri cư”, trong đó có gia đình cháu, vẫn sống phây phây trên mảnh đất Nam bộ lạ hoắc nhưng trù phú này. Những cảnh chọc quê dần dần biến mất, bạn bè nhiều hơn, trong đó dĩ nhiên không ít đứa Nam kỳ. Đứa Sài Gòn chính tông, đứa Sa Đéc, đứa Vĩnh Long, đứa Mỹ Tho, Cần Giuộc...Nhưng đứa nào cũng chửi cháu là "thằng Bắc kỳ lắm mồm”. Không "lắm mồm” chứ để chúng mày ăn hiếp ông hả ?

Nghĩ cho cùng, không "lắm mồm” thì đâu còn là Bắc kỳ nữa ! Thứ "lắm mồm” được việc, "lắm mồm” nghe vẫn bùi tai, "lắm mồm” dễ mến, thiếu thì nhớ, vắng thì mong, "tay chơi” nhưng vẫn "chân tu”, gái Nam kỳ cứ thế mà..."lắc lư con tàu đi”. Càng lớn lên cháu càng khoái Miền Nam, khoái Sài Gòn, nơi dễ có nhiều bạn, mà bạn lại không tồi. Nơi đó có dừa xiêm dzú sữa, có chè đậu xanh bột báng nước dừa, có bánh bèo trét mỡ trắng phau phau, có nước mắm đường ngọt lịm, có cá bống trứng kho tiêu, có trái cóc ngâm đường cắm que cà rem chấm muối ớt, có quán cơm bà Cả Đọi, có cả những con đường hẻm ngoằng nghoèo dẫn đến nhà ...chị Tình.

Miền Nam và Sài Gòn thật trong veo khoáng đạt, không tự tôn như cái Bắc kỳ đã có sẵn từ bẩm sinh trong bụng cháu, không rườm rà "màu mè ba lá hẹ”, chân thành thật thà, thẳng ruột ngựa, không làm vẫn có ăn, chơi xả láng sáng về sớm, để rồi vẫn cứ yêu người, yêu đời.

Có lẽ cũng cùng một cảm nhận như thế nên đám Bắc kỳ "ri cư” chúng cháu mới vào Nam chỉ có cái quần xà loỏng trên "tàu há mồm” đã lợi dụng thời cơ hè nhau tung ra dành dân chiếm đất khắp cõi Nam bộ, mà lại ăn nên làm ra trên mọi lãnh vực, trong đủ tầng lớp xã hội, nhất là vùng Sài Gòn Gia Định và các vùng phụ cận, chỗ nào làm ăn ngon lành thuận lợi là mấy mợ Bắc kỳ rau muống sang tay hàng loạt, ngoại trừ phía bên trong chợ Bến Thành và vùng Chợ Lớn, vì chẳng thèm "kèn cựa” với các chú Ba. Đã bảo rồi mà...: " Bà đã nàm thì nàm thật chứ không thèm nàm nấy ne, nàm nấy nệ !”

Từ sau năm 75 thì Bắc kỳ lại càng ăn trên ngồi trốc, các cụ không tin cứ mở cái máy "dzô tuyến chuyền hình” hay cái "ra dzô” ra thì thấy liền, các "xướng ngôn dziêng” hầu như "chăm phần chăm” đều là Bắc kỳ, không cậu thì mợ. Còn các mợ tiếp dziêng "E Việt Nam”, mợ nào mợ nấy đều khoe "em người Hà Lội” hết ráo ! Chẳng biết tại "dziêng dzáng” hay ”phe đảng” ?

Bố cháu trái lại, cái chất Bắc kỳ đã ăn vào máu, thấm vào cốt lõi xương tủy của ông từ bao đời, nhất quyết bắt anh em cháu phải thi vào trường Chu Văn An (CVA), con em gái phải thi bằng được vào trường Trưng Vương, toàn là những trường nổi tiếng từ miền Bắc, kéo theo các thày cô "ri cư” vào Nam. Phần vì bố cháu là cựu học sinh trường Bưởi, phần vì ông cũng có chút thiên kiến và ít tin tưởng vào các trường miền Nam như Petrus Ký hay Gia Long. "Mình dân Bắc thì phải học trường của người Bắc, chúng mày đừng có bàn với bạc lôi thôi !”, bố cháu phán cứ như đinh đóng cột.

Mà lạ thật ! Vào học Chu Văn An mới thấy toàn đám học sinh Bắc kỳ, le que vài trự Nam kỳ lạc lõng vô duyên, đếm chưa đủ mười đầu ngón tay đã hết đứa Trung kỳ. Cho đến các thày đa số cũng lại Bắc kỳ nốt, từ thày hiệu trưởng Dương Minh Kính đến thày thi sĩ Vũ Hoàng Chương.

Còn bên Petrus Ký thì ngược lại, hầu hết Nam kỳ. Hóa ra vung nào thì vẫn cứ đi tìm nồi nấy, hay hoặc giả có chính sách của chính quyền thời đó hay không ? Chẳng thành vấn đề, chỉ biết bọn Nam kỳ Petrus Ký châm biếm đổi tên Chu Văn An thành ...Chết Vì Ăn ! Cháu tức máu trả đũa, rằng chúng mày ghen ông vì chúng mày chiêm ngưỡng các em Bắc kỳ Trưng Vương mà thèm nhỏ dãi, nhưng sờ vào thì chúng mày sẽ thành con dế mèn để các em Bắc kỳ thọc cọng nhang sau gáy thổi quay vòng vòng ! Tức quá, mấy trự Petrus Ký chỉ biết "ngậm ngùi” đồng ca bản ”Khúc nhạc đồng quê” rằng thì là:


"Quê hương tui Bắc kỳ nhào dzô quá trời
Bên bờ sông bên bờ ao...trồng rau muống !”

Hay cũng là: "Quê hương tui cái mùng mà kêu cái màn !....”

Thôi thì cũng đúng thôi ! Mấy trự Nam kỳ hay Trung kỳ chỉ cần nghe một mợ Bắc kỳ uốn éo ra chiêu vài đường lưỡi thì đã nhũn như chi chi, mắt trợn ngược, mồm há hốc, quên luôn cả tên họ mình. Chỉ có trai Bắc kỳ mới trị nổi các mợ Bắc kỳ thôi ! Này nhé, các cụ cứ chịu khó nhìn chung quanh đi, cứ một trăm trự Nam kỳ chưa chắc có được một trự vớ được một mợ Bắc kỳ.

Tìm mỏi con mắt mới có một trự "diễm phúc” bế được một mợ mang về nhà thì bảo đảm suốt cuộc đời còn lại chỉ biết bốn chữ "gọi dạ bảo vâng”, răm rắp tuân lệnh bà, chẳng bao giờ còn nhìn thấy mặt trời, mặc dù suốt ngày ngửa mặt than Trời ! Đấy mới chỉ là các mợ Bắc kỳ 54 thôi nhé ! Gặp cỡ các mợ 75 hay các mợ quê quán Hà Đông hay Bắc Ninh "...cầm roi dạy chồng” thì ôi thôi ! cái te tua nó kéo luôn theo cả tông ti họ hàng, suốt đời hưởng "cái thú đau thương”, nghe chửi cứ tưởng nghe...hát. Hỡi các chú Nam kỳ hậu sanh: chớ chơi dại!

Đừng nghe ông Phạm Duy hát bài "Cô Bắc kỳ nho nhỏ” mà ham, lừa đấy ! Gặp Nam kỳ thì cái "nho nhỏ” kia sẽ phình to hơn cái vại, mà cái vại có nanh ! Ngược lại, một cậu Bắc kỳ rau muống quơ được một cọng giá Nam kỳ "đem về dinh” –vụ này nhiều lắm- thì cứ như "rồng thêm cánh”, như "diều gặp bão”, như lái ô tô không cần Navigation.. . cả đời có người "nâng khăn sửa túi” không công. Hóa ra hôn nhân cũng có quy luật đấy chứ:

Chồng Bắc kỳ + vợ Bắc kỳ = Vợ chồng đề huề, nếu biết cách
Chồng Bắc kỳ + vợ Nam kỳ = Chồng phây phả, phè cánh nhạn.
Chồng Nam kỳ + vợ Bắc kỳ = Chồng te tua, lưng còng.

Nhưng đã là "luật” thì bao giờ cũng có "luật trừ”, nghĩa là cháu không dám vơ đũa cả nắm đâu, với lại cháu chỉ lợi dụng cái "tự do ngôn luận” trên xứ người, xin bàn bậy vài chữ ngu ngơ để các cụ trong lúc "trà dư tửu hậu” đem ra trước là mua vui, sau là cho bớt chút căng thẳng trong cái cuộc đời ... đen như mõm chó này. Xin lỗi các cụ, nẫy giờ nói loanh quanh mãi, bây giờ cháu xin trở lại chuyện của cháu.

Bố cháu nghiêm khắc lắm và dĩ nhiên giáo dục con cái theo truyền thống Bắc kỳ. Đã có gốc có ngạnh, có cả sự nghiệp bề thế trong Nam nhưng vẫn...thờ cơm Bắc kỳ, vẫn lễ phép Bắc kỳ, vẫn giữ giọng nói Bắc kỳ và thậm chí còn ra lệnh, dâu rể cũng phải...Bắc kỳ ! Mỗi lần cháu dẫn bạn gái về nhà, bố cháu liếc mắt một cái là biết ngay cô nàng Bắc hay Nam.

Có một ông bố tinh đời như thế đôi khi lại...phiền. Với một mợ Bắc kỳ, bố cháu thân mật tươi cười "Cháu vào nhà chơi ! bố mẹ cháu khỏe mạnh không ?”, cứ làm như quen biết từ lâu vậy. Gặp cô ả Nam kỳ thì lạnh nhạt khinh khỉnh "Không dám, chào cô !” Cô bạn gái Nam kỳ mặt nghệt ra thưởng thức văn chương Bắc kỳ, còn cháu nghe qua mà thốn từ dạ dầy đến ruột non.

Nghe Bắc kỳ chê, nghe Bắc kỳ chửi, mà cứ tưởng mình đang nghe thơ phú hay nghe nhạc êm dịu mới chết chứ ! Nếu quen cô nào Trời sinh có mấy cái vòng hơi...sexy một tí, Bắc cũng như Nam, cháu phải dấu biệt vì sợ lựu đạn nổ tung trong nhà. Điệu này coi bộ hơi khó sống. Thôi thì Bắc Trung Nam cũng một nhà, hạnh phúc lứa đôi đâu phải do thằng hàng xóm, mà là do chính mình. Thế rồi cháu đã từng hạ quyết tâm với bố: lấy vợ Bắc kỳ, cho phải đạo làm con. Em nào Bắc kỳ, rước về nhà cho bố xem mặt mà bắt hình dong (cứ như đi mua gà chọi). Em nào Nam kỳ, điểm hẹn sẽ là mấy ống cống dưới gầm cầu xa lộ Đại Hàn.

Thiên bất dung gian! cháu lại phải lòng một ả Nam kỳ, Nam kỳ không lai giống, cái thứ Nam kỳ Gia Long kên kên xí xọn. Hồi đó cháu đi lính Không Quân của miền Nam, thấy đám phi công trời đánh đa số cũng đều là Bắc kỳ, chẳng hiểu tại sao? Dân Nam kỳ cũng có, Trung kỳ lại càng ít hơn, nhưng đứa nào cũng có ..."cái mồm Bắc kỳ”.

Cháu còn nhớ khi thi gia nhập Không Quân, phải đủ ký lô, đủ kích thước, lục phủ ngũ tạng bị khám tuốt luốt, phải trần trùng trục như con nhộng rồi nhẩy lên nhẩy xuống cho mấy ông bác sĩ ..."vạch lá tìm sâu”, chứ đâu có thi tuyển đứa nào "lắm mồm”! Thế mà thằng nào thằng nấy đều có cái "chứng chỉ lắm mồm” cao hạng dấu kỹ trong túi áo bay.

Một hôm đang trực phòng hành quân thì ông xếp (ông này Nam kỳ quốc) hỏi có thằng nào rảnh ra phi đạo chở con cháu gái vợ của xếp theo tàu từ Sài Gòn ra Nha Trang đem về nhà bà vợ đang có bầu sắp đẻ. Tưởng đi biệt phái hành quân chứ cái màn này cháu khoái lắm: "Chuyện nhỏ mà xếp, có tui ngay”. Ông xếp của cháu cũng chẳng vừa, nhìn thấu tim gan thằng đàn em : "Lẹ lẹ lên coi, tàu sắp đáp rồi đó, sách tao mày học hết còn dư có cái bìa, nhưng mà từ từ thôi nghe cha nội, lạng quạng con mẻ chửi tao thấy bà !” Lúc đó cháu đâu có ngờ rằng, cái chuyện nhỏ như mắt muỗi này lại thành chuyện lớn, lớn khủng khiếp, ảnh hưởng đến hết cả cuộc đời cháu !

Cô cháu gái ông xếp không có cái dạng "ngực tấn công, mông phòng thủ” như trong "xi la ma”, thế mà ngay từ phút ban đầu cháu đã bị dáng ngay tim một cái búa tạ chình ình chứ chẳng phải tiếng sét tầm thường.

- "Cô đi máy bay có mệt lắm không ?”
– "Dạ !”.
-"Ra thăm cô dượng hả ?”
– "Dạ !”.
-"Cô lên xe đi, tôi đèo cô về”
--"Dạ !”...

Chèng đéch ơi ! sao mà cụt ngủn cộc lốc thế bà nội ? Cái gì cũng ”dạ” hết ráo thì cháu biết đâu mà rờ ! Đúng gái Nam kỳ ! Chợt nghĩ, không biết bà dzợ xếp tới giờ này có còn ”ngây thơ”, ”dạ dạ” với xếp như dzậy nữa hay không ? Xếp cháu đang ở San José, nếu xếp có đọc những giòng chữ này thì xếp cũng bỏ qua dùm vì thằng em đã thuộc lòng trọn bộ sách của xếp từ khuya rùi !

Từ đó cháu với nàng rủ rỉ rù rì cùng nhau đánh vần mấy chữ ”hình như là tình yêu”. Cuộc tình của cháu với nàng êm ả như quả lắc đồng hồ treo trên tường phòng khách nhà cháu, nhưng mỗi khi nghĩ đến bố cháu thì quả lắc đồng hồ bỗng ngất ngư như bị đứt dây thiều. Thương quá, cháu đánh liều, ”mấy sông anh cũng lội, mấy đèo anh cũng qua”, chuyến này nhất quyết không chui ông cống gầm cầu xa lộ, mà dắt nàng về nhà trình diện bố. Bố vẫn khinh khỉnh: ”Không dám ! chào cô”. Nàng vui tính: ”Ba anh coi ngầu quá hén!”, cháu tỉnh bơ: ”Không ngầu sao làm bố anh được !”.

Thật ra thì bố cháu đâu có ghét Nam kỳ, ông chỉ phàn nàn rằng dân Nam kỳ được trời đãi, cho sống trên mảnh đất mầu mỡ phong phú, không làm vẫn có ăn, mà lại ăn ngon nữa, nên có tính lè phè, hoang phí, không chăm chỉ hạt bột, không cần cù tiết kiệm như Bắc kỳ. Ông chỉ vì thương con, lo cháu lấy nhằm cô vợ Nam kỳ cả ngày chỉ biết...phè cánh nhạn, ăn no lại nằm, thì con cưng của ông sẽ thành thân trâu ngựa suốt đời. Còn mẹ cháu, vốn dĩ nhà quê răng đen mã tấu bảo rằng, nghe Nam kỳ nói chuyện cứ tưởng nghe tiếng nước ngoài, chỉ hiểu một nửa ! Cháu cãi lại, Bắc kỳ cũng có khối đứa lười, lười như..cháu đây là hết mức rồi !

Một hôm cháu đưa nàng về nhà, gặp lúc bố mẹ cháu sửa soạn mở tiệc đãi ông bác từ Hố Nai lên thăm. Ông bác vui tính bảo tiện bữa ngồi ăn luôn, cháu đang chần chừ thì nàng vén áo hạ ngay cái bàn tọa tròn lẳng xuống ghế, cháu kéo lên không kịp. Cháu thủ thỉ giải thích cho nàng rằng, đi đâu gặp khách Bắc kỳ mời ăn thì chớ có ăn liền, cứ để người ta mời dăm lần bẩy lượt, ăn liền người ta chửi mình...chết đói !

Nam kỳ thì thẳng ruột ngựa, mời là cháp lẹ, không cháp dọn xuống bếp, đói ráng chịu, không mời lần thứ hai, ai biểu mời không ăn ! Bỗng mấy đứa em cháu thay phiên nhau : ”Mời bác xơi cơm, mời bố xơi cơm, mời mẹ xơi cơm, mời anh xơi cơm, mời chị xơi cơm”, mời... mời... mời tùm lum!. Thằng em út cháu mời dài nhất, mời lâu nhất, mời từ trên xuống dưới , trong nhà chỉ có con Tô Tô đang nằm chực dưới gầm bàn là nó không mời. Nó lại chẳng được ai mời để xơi, út mà ! nhưng rồi vẫn xực ào ào !

Cô bạn Nam kỳ của cháu trố mắt nhìn cháu chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Cháu vội ghé tai thì thầm:

- Em mời gia đình ăn cơm đi !
- Ủa ! gia đình anh mời em ”ăng” mà ? Bộ ”ăng” cũng phải mời...mời...xơi ...xơi sao?

Nàng ấp a ấp úng cũng ráng mời:

- Dạ mời bác, mời bác, dạ mời... à... à... mời anh, mời em...

Chợt bố cháu lên tiếng:

- Thôi đủ rồi, cháu mời người trên thôi, còn mấy em cháu không phải mời...Mà hay thật ! Con bé này vui vẻ, ngoan ngoãn lắm ! Sao con cứ ăn hiếp nó mãi !

Nghe bố cháu nói mà bụng cháu cứ như mở cờ, ông còn cao hứng bảo khi nào nàng nấu cơm Nam kỳ cho gia đình cùng ăn. Cô nàng hí ha hí hửng nói liền:

- Dạ ! (lại dạ!), để bữa nào cháu nấu bún(g) mắm dzới thịt heo ba rọi cho bác ăn(g), bún(g) mắm thịt ba rọi Trà Dinh ngoong nhức miền Nam nghe bác !
- Sao ? cô muốn búng hả ? Lỗ tai tôi đây này, muốn búng bao nhiêu thì cứ búng đi !

Thế là cả nhà cháu được một trận cười nắc nẻ. Nào đã hết đâu, mẹ cháu chợt bảo:

- Cháu xuống bếp lấy cho bác mấy cái ”cùi dìa” với cái ”muôi” để trong ngăn kéo đấy !

Nàng ngớ ra cứ như được nghe tiếng...Tây, nhìn cháu cầu cứu. Cháu cười hì hì khoái tỉ, ra cái điều thông thái giải thích ngay:

- Cái ”cùi dìa” Nam kỳ kêu là cái ”muỗng”, tại Bắc kỳ sống lâu với bọn Tây, chúng nó gọi là ”la cuiller” thì Bắc kỳ gọi luôn là cái ”cùi dìa” cho tiện. Còn cái ”muôi” Nam kỳ kêu là cái ”vá”, chữ ”vê” thì đọc là ”dê” cho nên gọi là cái ”dzá”, phải không ?

Nàng đỏ mặt, bĩu môi ”Cái đồ dzô dziêng, tui đi dzìa à nghen !”

Sau bữa cơm hôm ấy, hình như bố cháu bắt đầu ”chuyển hệ”, có vẻ gần gũi thân mật với nàng hơn vì thấy nàng thật thà, có sao nói dzậy, không bãi bôi, không vòng vo tam quốc, nhất là...không lười như ông nghĩ. Thừa thắng xông lên, cháu thủ thỉ với mẹ cháu là cháu muốn lấy nàng làm vợ. Mẹ bàn với bố, bố vẫn ngần ngừ.

Tại bố cháu không biết đấy chứ, cháu đọc lóm từ một quển sách nào đó người ta viết rằng, trong lịch sử nước ta hầu hết các vua chúa miền Trung đều có nhiều bà vợ bé, mà hầu như bà nào là Chánh Cung Hoàng Hậu cũng đều là Nam kỳ: vua Minh Mạng có rất nhiều vợ, đa số là các bà Nam kỳ, Chánh Cung là bà Hồ Thị Hoa, người Biên Hòa; Chánh Cung của vua Thiệu Trị là bà Từ Dũ, người Gia Định; Vợ chánh của vua Bảo Đại là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương Hoàng Hậu), là người Gò Công. Mấy ông vua cũng tinh đời đáo để ! Nhưng cháu ”không phải là vua, nên mộng ước thật bình thường ”, chỉ xin ”...quỳ lậy Chúa trên Trời, sao cho lấy được ...con nhỏ Cái Bè con thương !”

Thật là oái oăm: cá đã cắn câu mà bố cháu vẫn chưa cho giựt cần! Tuy thế, thỉnh thoảng bố cháu cũng dò hỏi về gia đình nàng. Thì cháu đã nói rồi mà, ”quê Cái Bè, nội Cái Răng, ngoại Cái Dồn”, ruộng đất mênh mông, sông nước dập dình, ăn nói ”ngắn gọn và dễ hiểu” chứ không ”dài dòng nhưng khó hiểu”... kiểu Bắc kỳ ! Chấm hết!

Ngày vui nhất đời cháu là ngày bố cháu ra lệnh sửa soạn ”lên đồ dzía” đến thăm gia đình nàng. Sao bố cháu không nói thẳng thừng ra là đi ”hỏi vợ”, đi ”chạm ngõ” cho xong. Nhưng mà cần gì phải ”chạm ngõ” với lại ”chạm cổng” cho rườm rà rắc rối, nhà của nàng cháu biết từng phòng, quen từng góc, rõ từng cột.

Mỗi lần cháu từ đơn vị ”dù” về đều có chút quà biếu ba má nàng, cho mấy đứa em nàng và cho cả cô Ba giúp việc trong nhà (học theo sách dụ khị của xếp cháu đấy !). Lần nào gặp ba nàng là lần đó có...nhậu. Đồ nhắm lúc nào cũng có sẵn, lúc củ kiệu tôm khô, khi ra sau hè ngắt mấy trái xoài tượng chấm mắm nêm ngào ớt, kẹt quá cột sợi ny-lông dzô ngón chân cái, đầu kia cặm mấy con trùng liệng xuống sông, cũng câu được mấy con cá lên nướng làm mồi. Nam kỳ trù phú mà ! Ổng không nhậu bia nhậu rượu, mà nhậu đế; không nhậu bằng cốc hay ly mà nhậu bằng tô, tô nào tô nấy bằng cái bát ăn cơm nhà cháu. Thế mà ổng lúc nào gặp cháu thì cứ nói rằng: ”Dô dzới tao dăm ba sợi nghe mày !” Chưa tới nửa sợi cháu đã guắch cần cẩu ! ”Lính tráng như mày chi mà yếu xìu sao oánh giặc nổi ? Dzô cái coi !” Ổng thương, ổng coi như con như cháu, ổng mới kêu cháu bằng ”mày”. Tiếng ”mày” của Nam kỳ biểu lộ cái chân tình, sự gần gũi thân thương, không như Bắc kỳ khi đã xổ ra tiếng ”mày” rồi thì ... ô hô ! ô hô ! thiện tai ! thiện tai ! chạy cho lẹ !

Một hôm đang nướng con mực khô nhậu lai rai với ổng, bỗng có khách gõ cửa bước vào, mặt ổng sáng lên như sao băng, vừa cười vừa nói:

- Chèng đéc ơi anh Sáu Lèo ! hôm qua tui chờ qua qua mút chỉ cà tha, hôm qua qua nói qua qua mà qua hổng qua, hôm nay qua nói qua hổng qua mà qua lại qua, nay qua rồi có thằng rể tương lai tới thăm, nhào dzô chơi vài xị, hôm nay có ớt nè qua !

Nói chi mà cứ qua đi qua lại, qua tới qua lui, nói cũng như thơ phú đấy chứ, thế mà mẹ cháu cứ nói tiếng Nam kỳ nghe sao như tiếng...nước ngoài !

Bắc kỳ vẫn có câu ”dâu là con, rể là khách”, nhưng Nam kỳ thì ”dâu là con, rể cũng là...con luôn”. Bố dzợ chịu chơi lại gặp thằng rể cũng chịu chơi luôn, dzô ba xị rồi thì coi như...bạn, chơi xả láng sáng dzề sớm, còn má dzợ bỗng nhiên thành... chơi chịu ! Nàng kể cho cháu nghe, nhiều lần ổng đi nhậu quá giờ giới nghiêm chưa chịu về, cả nhà trông đứng trông ngồi. Chợt nghe tiếng xe Vespa quen thuộc chạy ngang nhà, cứ thế nghe cái ”dzù” rồi lại chạy mất tiêu, lại nghe cái ”dzù” rồi đi tuốt luốt ! Sinh nghi, nàng chạy ra cổng đón đường chặn xe : ”Ba ui ! Ba ui ! Tới nhà rồi nè !”. Ổng chợt tỉnh, quẹo dzô thắng cái ”két”, xe đổ cái rầm, ổng té cái đụi, miệng lèng nhèng ” Ủa, nhà mình đây rồi sao? Dzậy mà tao chạy dzòng dzòng kiếm hoài hổng ra !”

Ngày cưới, cháu chọn nhà hàng Đại La Thiên của chú Ba tuốt bên Chợ Lớn cho có vẻ trung dung, không Nam cũng không Bắc mà là cơm Tàu. Không xài Karaoke nhưng chơi nhạc sống. Có ông chú dzợ tên là Ba Phoóng làm nhạc trưởng cho mấy bà xồn xồn Nam kỳ lên sân khấu ca cải lương hà rầm. Hình như 7 thứ nghệ thuật của nhân loại đối với Nam kỳ đều tóm gọn trong mấy câu dzọng cổ thiệt mùi.

Đám cưới cháu người ta chụp nhiều hình lắm. Ông bố vợ coi hình gục gặc cái đầu: ”Chèng đéch ơi ! thằng rể tao chụp hình coi phông độ dzữ hén ! Ráng nghe mày !” Cháu chẳng hiểu ổng nói cháu phải ráng cái gì ? Nhưng có một cái cháu phải ráng là cái chắc, ai biểu ham dzợ Nam kỳ...mũi cao chân dài !
Còn bố cháu xem ảnh thì lại phán một câu xanh rờn: ”Con dâu bố chụp với bố ảnh này đẹp quá, giá mà đứng cạnh bố con khoanh tay lại thì còn đẹp hơn biết bao !”. Ông xếp cháu, khơi khơi tự nhiên thành ông dượng, sẵn có dăm ba ly nhưng mắt vẫn láo liên ngó bà cô, rồi len lén kể lể làm oai: ”Thấy chưa mày! Hồi đó tao xách máy bay xuống Vĩnh Long rồi lạng qua Cái Bè, mới lạng chơi dzài ba dzòng là dzớt luôn bà cô mày, ngon chưa !” Cám ơn ”ông xếp dượng” đã có công ”nối giáo cho giặc” rồi rước luôn giặc vào nhà. Còn mấy thằng bạn Không Quân quỷ sứ thì xúm nhau ca bản ”Mùa thu chết ”... đã chết rồi, cho mày...chết luôn!

Ngày qua ngày, cháu không chết mà vẫn sống nhăn răng với bà vợ ”quý phái bình dân”, bây giờ đã có 4 con với 3 đứa cháu ngoại để nựng. Nam kỳ cũng chăm chỉ đấy chứ ! Thế là xong một đời phiêu bạt giang hồ, bay bướm, quậy phá ! Được cái vợ cháu cưng cháu lắm (Nam kỳ mà!), bao nhiêu công việc trong nhà từ lau nhà, rửa chén, hút bụi, trồng cây, giặt đồ...vợ cháu dành làm hết ráo.

Bả nói ”tay chân ông như thằng cùi, làm đâu hư đó, để tui làm luôn cho lẹ !”. Cháu đi làm mang tiền về, bả cũng không thèm động tới, bảo rằng ”tui hỏng cần anh nuôi tui !” Thế nhưng vợ cháu ghen khỏi nói, trong vườn trồng nhiều ớt hơn trồng hoa, ghen có đẳng có cấp, ghen có kế hoạch, có phương án đàng hoàng. Ghen thì ghen, lâu lâu cháu cũng theo bạn bè...nhảy dù vài sô, về nhà im thin thít, thế mà bả cũng ”nghe” được mùi, lườm lườm, nguýt nguýt, rồi cũng huề tiền.

Sau này cháu mới khám phá ra vợ cháu rất sòng phẳng, đâu ra đó, nếu ”ăn bánh trả tiền” là...cho qua cầu gió bay, không thèm chấp. Một hôm vô tình đọc báo thấy tin cô Quờn, người Sóc Trăng, ghen chồng lăng nhăng, lẳng lặng lựa lúc chồng đang say túy lúy, xách con dao bếp cắt luôn...của quý của chồng đem quăng sau vườn. Cô Quờn ra tòa ngồi chơi 4 năm tù. Trời đất Thiên địa ơi! Nam kỳ mà ghen kiểu này chắc cháu chết sớm, cháu dấu luôn tờ báo, ai dè vợ cháu chu môi oỏng ẻng : ”Cái đó còn đỡ à nghen ! gặp tui là tui cho luôn dzô cái máy xay thịt rồi quăng cho bầy gà ăn, chớ giờ người ta dzăng minh lắm, khâu nối lại mấy hồi !” Má ơi là má ! Cháu nghe mà ớn lạnh xương sống! Chơi kiểu này thì hơn xa các mợ Bắc kỳ rồi ! Nhưng cháu lại được phép kéo bạn bè về nhậu...xả láng, nhậu ”vô tư”. Xỉn quá thì : “Anh mệt rồi nghen, uống ly nước đá chanh nè, rồi dzô đây em cạo gió hết liền !”. Bạn bè ói mửa tùm lum thì : ”Hổng sao đâu, anh ngồi tiếp mấy ảnh đi, em dọn cho !” Mấy thằng bạn có vợ Bắc kỳ ngó phát thèm !

Chắc khí thiêng sông núi Bắc kỳ linh thiêng hùng vĩ , hay nói theo khoa học hiện đại là cái ”dzen” Bắc kỳ quá mạnh, nên vợ cháu nửa dưới vẫn còn là Nam kỳ, nhưng nửa trên đã hóa thành Bắc kỳ: không nói ”bự bành ky” mà nói ”to vật vã”; không gọi ”trái bom” mà gọi ”quả táo”; thích ăn canh rau muống hơn nấu canh chua; nhưng đặc biệt nhất là ăn nói không còn ”ngắn gọn và dễ hiểu” như xưa, mà bây giờ thì.. ôi thôi ! ”dài dòng, ào ào như thác đổ”, nghe riết muốn khùng !
Bố cháu ăn ”bún(g) mắm thịt ba rọi” của vợ cháu nấu, đến phát nghiền, nghiền luôn cả chén nước mắn pha đường. Nhà cháu có bốn anh em trai thì bố cháu có tới ba ả dâu Nam kỳ, nhưng cả đám hợp lại vẫn thua xa một mợ dâu Bắc kỳ, ăn nói ngọt như đường phèn, dịu dàng khoai thai như thiên nga, thêm cái tài...chửi như hát di truyền. Thế là cái mộng ”dâu rể phải là Bắc kỳ” của bố cháu bị nước sông Cửu Long vùng Nam bộ cuốn trôi tiêu tùng. Bố cháu bây giờ cũng rành ”sáu câu” về Nam kỳ lắm, ông bảo người ta nói rằng:

- ”Tính tình gái Nam kỳ giống như mưa Sài Gòn: đỏng đảnh nhưng mau quên; tính tình gái Bắc kỳ giống như mưa Hà Nội: âm ỉ và dai dẳng”.

Lợi dụng lúc ông đang vui vẻ, cháu bèn phụ họa :

- Bố biết không, người ta cũng bảo : ”Ở Sài Gòn nhiều em sinh viên giống như ca ve; Ở Hà Nội nhiều em ca ve giống như sinh viên”, đúng không bố ?

Bố cháu quắc mắt : ”Sao dám ăn nói lăng nhăng thế hả ?”.

Cháu chuồn nhanh kẻo ông nổi giận. Thôi thì đến nước này rồi, cúi xin các cụ cũng rộng lòng bỏ qua cho cháu nếu có gì gọi là thiên vị, bởi vì con gái Nam kỳ bây giờ đã là ”cây nhà lá vườn” của cháu, nên cháu đành phải ”ta về ta tắm ao ta”, ôm lấy cái ao Nam kỳ, ôm cứng cái cây sầu riêng Nam bộ cho phải đạo ”tình Bắc duyên Nam”, nếu không cháu phải ôm thùng mì gói suốt đời. Mong sao các cụ đọc xong rồi bỏ qua, cứ coi như một chuyện tầm phào, bởi vì cháu đã liều mình như mấy mợ Hà Nội làm con chim đa đa, không lấy vợ gần mà lấy vợ xa, xa tuốt luốt tận cái xứ Nam kỳ với giòng sông 9 cửa.