Bài đăng phổ biến

Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2012

Chàng Rể Gò Công




Rể Gò Công

Chàng rể Nguyễn Vĩnh Thuỵ

     Người Gò Công tôn sùng Trương Công Định. Nhưng Trương Công Định không phải là người Gò Công, mà là Rễ Gò Công. Hoàng Đế Bảo Đại cũng là Rễ Gò Công. Rễ Gò Công thì nhiều lắm. Trong bài nầy chỉ đề cập vài điểm đặc biệt lý thú về Hoàng Đế Bảo Đại mà thôi.
     Chuyện tình nào cũng ít được suông sẻ, kể cả nhà vua cũng vậy. Muốn làm rễ Gò Công không phải là dễ.
     Gái Gò Công không tự cho mình là đẹp, nhưng tự hào có được Hoàng Hậu Nam Phương. Hoàng Hậu duy nhứt của triều Nguyễn, qua 12 – 13 đời vua, trị vì 153 năm, đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan – (Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Thị Lan con của Ông Nguyễn Hữu Hào)


 Người đẹp nhứt thời bấy giờ, bà đã ba năm liền trúng giải hoa hậu Đông Dương. Người đã chiếm trọn trái tim Hoàng Đế Bảo Đại khi mới gặp mặt lần đầu tiên trên chiếc tàu D’Artagnan. Hoàng Đế si tình đến nỗi thà bỏ ngôi vua chớ không chịu bỏ làm rễ xứ Gò. Thật vậy, khi bị bà Từ Cung từ chối, Bảo Đại nói nếu không lấy được Thị Lan thì sẽ “ở vậy” suốt đời. Nếu chọn một trong hai, tôi sẽ chọn Thị Lan chớ không chọn ngai vàng. Đó là lời thuật của viên bí thư của Bảo Đại.
     Ai ở Gò Công mà không biết Nguyễn Hữu Hào rễ của Ông Huyện Sỹ tức Lê Phát Đạt đã xây ba nhà thờ: Chợ Đũi, Hạnh Thông Tây và Thủ Đức để dâng cúng cho dân địa phương. Dân địa phương thường gọi là nhà thờ Huyện Sỹ. Cái trở ngại lớn nhứt của Bảo Đại đó là triều đình nhà Nguyễn thì chủ trương chống lại công giáo, chống lại dân Tây mà Tây thì bị xem là kẻ xâm lược nước mình, còn gia tộc của Nguyễn Hữu Thị Lan thì quốc tịch Pháp và nặng nhứt là sùng đạo.
     Người Nam Kỳ từ đầu thế kỷ 20 đã truyền miệng nhau câu “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường tứ Định”. Nghĩa là người giàu nhứt Nam Kỳ thời đó là gia đình Huyện Sỹ (Tỷ phú), tức ông ngoại của Nguyễn Hữu Thị Lan.
     Nếu so với Hoàng Đế cuối cùng của Trung Hoa – vua Phổ Nghi sau khi bị hạ bệ thì bị đày đi nông trường cải tạo nhiều năm mới được cho về làm công dân Trung Quốc, thì Bảo Đại – người Rễ Gò Công nầy may mắn hơn nhiều, diễm phúc hơn nhiều cũng là nhờ bà Hoàng Hậu Nam Phương – Người con gái Gò Công làm nên lịch sử. Muốn làm rễ Gò Công không phải là dễ. Đầu tiên là việc chống đối của triều đình. Các quan đại thần, ông nào cũng có con gái lớn chạc bằng hoặc nhỏ tuổi hơn cũng đều muốn gả cho Bảo Đại. Đó là truyền thống, đó là danh dự suốt cuộc đời làm quan cho triều đình. Làm Quốc trượng ai ai mà không ham. Trong đoạn hồi ký “Con Rồng An Nam” ông tâm sự: “M.J Lan có một vẽ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm tôi say mê. Vì vậy tôi ngỏ ý xin cưới cô và cô đã đồng ý nhưng với điều kiện:
     - Gia đình cô đồng ý trước đả.
     - Về phía gia đình cô Mariette Jeanne Lan cũng đồng ý nhưng phải thêm các điều kiện sau:
     - Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng Hậu Chánh Cung ngay ngày cưới.
     - Được giữ nguyên đạo Công Giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo luật công giáo và giữ đạo.
     -Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo.
     -Phải được Tòa Thánh La Mã cho phép hai người buộc ai.
     Tiếp đó cụ Tôn Thất Nhân nêu lý do: Thị Lan chỉ đậu tú tài toàn phần Pháp không thể so ra với Trạng Nguyên xứ ta, lại đòi làm Hoàng Hậu nữa thì không thể chấp nhận được.
     Trước Hoàng Tộc, Bảo Đại thẳng thắn trả lời Tôn Nhân Phủ như sau: “Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình đâu.” Câu nói lịch sử mà tất cả triều thần đều trố mắt nhìn nhau chịu thua. Tình yêu là sức mạnh. Tình yêu là trên tất cả.
     Cuối cùng thì tình yêu đã thắng. Ngày cưới được ấn định vào ngày 20 tháng 3 năm 1934. Bảo Đại đúng 21 tuổi, và Nguyễn Hữu Thị Lan 19 tuổi. Bảo Đại chính thức là Rễ Gò Công.

     Ngày mùng 10 tháng 2 (tức tháng 3 năm 1934) lễ tấn phong Hoàng Hậu được diễn ra rất trọng thể ở điện Dưỡng Tâm. Nhà vua phong Hoàng Hậu tước vị Nam Phương Hoàng Hậu.
     Bảo Đại giải thích thêm về hai chữ Nam Phương như sau: “Tôi đã chọn tên trị vì cho bà Hoàng Hậu mới là Nam Phương. Nam Phương có nghĩa là hương thơm của miền Nam (Parfume du Sud) và tôi cũng ra một chỉ dụ đặc biệt cho phép bà được phục sức màu vàng – màu dành riêng cho Hoàng Đế.” Người đàn bà duy nhứt trong lịch sử Việt Nam được chỉ dụ đặc biệt nầy.
     Trong hồi ký . . . đã viết về Hoàng Hậu như sau: “Chân dung Nam Phương Hoàng Hậu mặc quốc phục thật xứng đáng là “Đệ Nhất Phu Nhân”. Trông gương mặt bà sang trọng mà không kiêu, hiền mà không tầm thường, dễ dãi. Nụ cười kín đáo nhưng không quá e lệ. Đôi mắt nhỏ mà tinh anh. Chiếc cổ tròn, thon và cao hợp với khuôn mặt. Dáng bà lại cao nên xứng đôi khi đi bên cạnh Bảo Đại. Nếu chỉ so sánh về sắc đẹp với những vị đệ nhất phu nhân khác trên thế giới như Hoàng Hậu xứ Monaco, Phi Luật Tân thì chắc chắn bà Nam Phương Hoàng Hậu phải được chấm giải nhứt. Nhất không phải chỉ riêng vì sắc đẹp, mà nhất về tư cách và đạo đức và cách sống của bà từ ngày trở thành Hoàng Hậu cho tới ngày tạ thế với tước vị Long Mỹ Hầu rồi tăng thêm là Long Mỹ Quận Công và Kim Khánh Bội Tinh đệ nhứt hạng cho mẹ vợ là bà Lê Thị Bình (Con ông tỷ phú Huyện Sỹ) với tước vị Mệnh Phụ Cung Đình đệ nhất hạng.
     Sau đây là vài chi tiết về người con rễ Gò Công nầy:
     “Theo Đế Hệ Nguyễn tộc: Miên, Hồng, Ưng, Bửu, Vĩnh, Bảo, Quý, Định, Long, Trường, thì Bảo Đại thuộc về hệ thứ 5 tức là Vĩnh – Vĩnh Thụy. * Lên ngôi Hoàng Đế năm 12 tuổi (13 tuổi ta) ngày 8 tháng 1 năm 1925 lấy hiệu là Bảo Đại, và lại tiếp tục sang Pháp du học.
     *Bảo Đại hồi loan: Tàu D’Artagnan cập bến cảng Saint – Jacques (Vũng Tàu) đầu tháng 9 năm 1932. Ông ngỏ lời trước quốc dân là ông sẽ lãnh trách nhiệm làm cho toàn thể quốc dân được tiến hành trong công cuộc văn minh tiến bộ. Sau đó ông cải cách guồng máy chính trị cho phù hợp với thời gian lúc bấy giờ. Như lập thêm Bộ Xã Hội Kinh Tế, Bộ Tài Chánh. . .
     “Được phong làm Đông Cung Thái Tử năm vừa được 7 tuổi (năm Khải Định thứ 5) Chiếu chỉ ban ngày 20 tháng 2 năm 1920.
     Sang Pháp du học ngày 24 tháng 2 năm 1922 ở biệt thự sang trọng đường Bourdonnais  Paris.
    Ông vừa học chữ Hán, chữ Quốc Ngữ và cả chữ Pháp. Ông được nhập học trường Lycée Condorcet Puis Sciences Politique.
     Ngoài giờ học ở trường, ông còn học thêm về âm nhạc, đàn dương cầm, chơi quần vợt, tập lái xe hơi, bơi lội, và tập khiêu vũ với những cô đầm non cùng lứa tuổi với ông.
     *Thân thế: Nói đến chàng rễ Gò Công Bảo Đại, chúng ta chưa có một manh mối nào về cha ruột của người Hoàng Đế cuối cùng của Việt Nam nầy. Chỉ biết mẹ ruột là bà Hoàng Thị Cúc tức là bà Từ Cung sau nầy. Còn cha ruột? Trong sách sử cũng như các tư liệu đều nói rằng Ông Bửu Đảo tước hiệu là Phụng Hóa Công là vua Khải Định là cha trên giấy tờ là người bất lực, vô hậu. Chỉ biết Bảo Đại tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy sinh ngày 22 tháng 10 năm Quý Sửu (1913) tại Huế. Theo nhà nghiên cứu Phan Thứ Lang thì sau khi lược qua những tập di cảo đồ xộ, lọc ra nhiều chi tiết có liên quan đến việc Vĩnh Thụy chính là con cụ Hường Đ.
     Hành động đầu tiên: Là một việc nhỏ nhưng lúc bấy giờ là một việc trọng đại, một cách mạng trong nghi lễ triều đình: Bỏ năm lạy, chỉ có xá ba xá là “Tam khấu lể”. Lý do là Ông muốn tôn trọng người lớn tuổi, đáng bậc chú, bậc cha, nếu các vị quan trong triều mà phủ phục quỳ lạy một người tuổi chỉ đáng hàng con cháu thì khó coi quá.
     Còn người ngoại quốc thì chỉ bắt tay theo phép xã giao Tây phương cho được thoải mái.
     *Đồng bạc Bảo Đại: Đựơc đúc bằng đồng mỏng. Có giá trị bằng ½ tiền Khải Định
     Trong dân gian lúc bấy giờ có câu:
     “Hai con đổi lấy một cha
       Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền”.
     Sở thích: Gần như cái gì Bảo Đại cũng thích. Đánh bài, khiêu vũ, săn bắn, cởi voi, lái xe, đàn dương cầm. . .
     Trong tài liệu nói rằng ông ném vô sòng bài chiếc du thuyền 250.000 đô lúc đó, đến nỗi cái lâu đài ở Cannes gần thành phố Nice – miền Nam nước Pháp – cũng đem nướng luôn. Nhưng cũng có lần được thắng thì cho bà Nam Phương đi mua sắm hả hê. Có lần đánh ở sòng bài quốc tế Monaco với các tiểu vương và các nhà tư bản giàu sụ ông thắng đậm và mua ngay cho bà Mộng Điệp chiếc nhẫn kim cương trị giá mấy triệu đô – là chiếc nhẫn kim cương lớn nhất vùng Đông Dương lúc bấy giờ.
     *Hạ sanh Hoàng Tử: Đêm ngày 4 tháng 1 năm 1936, người dân đất thần kinh nghe những tiếng súng bắn mừng báo tin Nam Phương đã hạ sanh, và lờ mờ sáng lại một lần nữa 7 tiếng súng thần công làm lay động cả Hoàng Thành. Dân chúng biết đó là Hoàng Nam vì là 7 tiếng súng còn nếu là công chúa thì sẽ là 9 tiếng súng. Đó là Thái Tử Bảo Long. Bảo Đại chính thức đã có với Nam Phương Hoàng Hậu năm người con: hai trai và ba gái:
     Công chúa Phương Mai, ngày 1 – 4 năm 1937.
     Công chúa Phương Liên, ngày 3 – 11 năm 1938.
     Công chúa Phương Dung, ngày 5 – 2 năm 1942.
     Hoàng tử Bảo Thắng năm 1948.
     Những tình nhân của Bảo Đại:
     Mộng Điệp: Được Bảo Đại cưng chiều chỉ sau Hoàng Hậu Nam Phương. Được Bảo Đại tín dụng truyền chỉ mang Ấn Kiếm (Nguyễn Triều Chi Bảo) sang Pháp cho bà Nam Phương cất giữ. Bảo Đại và Mộng Điệp có 3 người con:
     Phương Thảo sanh năm 1946
     Bảo Hồng sanh năm 1954
     Bảo Sơn sanh năm 1957.
     Lý Lệ Hà: là người đẹp đã theo sát Bảo Đại từ  Việt Nam sang Trung Quốc lưu vong. Có người tả hai hàm răng của Lý Lệ Hà là hai hàng bạch ngọc và quý hơn ngọc đã làm cho Bảo Đại say mê và bà Nam Phương phải buồn lòng và lo lắng vì mối tình nầy.
      Bà Đầm Monique Baudot: Người tình cuối cùng: Khi bà Nam Phương tạ thế thì cựu Hoàng mới có 65 tuổi còn bà đầm Monique Baudot 35 (chỉ nhỏ hơn cựu Hoàng 30 tuổi thôi mà). Bà đầm nầy với Bảo Long là nước với lửa. Đã choảng nhau, kiện tụng vì cái ấn kiếm. Ai là chủ quyền của Ấn Kiếm nầy? Và hiện nay đang ở đâu?
     Cặp Ấn Kiếm – Mệnh danh là Nguyễn Triều Chi Bảo – nầy do vua Bảo Đại truyền chỉ cho thứ phi Mộng Điệp đã đem từ Việt Nam cùng hơn 600 món bảo vật đến tận tay bà Nam Phương Hoàng Hậu bảo quản. Trong lúc tiếp nhận có bốn ông giúp bà đưa vào tủ kiến (các ông Nguyễn Đệ, Nguyễn Duy Quang, Nguyễn Tiến Lãng và Phạm Bích – con của Phạm Quỳnh). Khi bà còn sanh tiền đã nhắc nhở Thái Tử Bảo Long rằng: Đừng bao giờ mở tủ kiến mà tách hai bảo vật nầy ra hai nơi. Đến khi Bảo Đại viết xong cuốn sách “Con Rồng An Nam” muốn mượn con dấu để đóng lên quyển sách cho thêm phần giá trị thì Bảo Long nhất quyết không cho, viện dẫn lý do là Mẫu Hậu đã có dặn. Vì thế mà có cuộc tranh chấp kiện tụng ra tòa. Tòa xử: “Bảo Đại giữ Quốc Ấn, còn Bảo Long được giữ Quốc Kiếm.” Đến nay không biết hai báu vật – hai linh vật nầy đang ở đâu?
     Một người Pháp nói rằng: “Chiếc ấn là vật có hồn.” Suy nghiệm thì ấn kiếm – Nguyễn Triều Chi Bảo là có hồn thật. Cây Quốc Kiếm vì lý do nào đó mà bị gãy đôi là điềm chia đôi đất nước 1954. Khi Quốc Ấn và Quốc Kiếm tách rời nhau thì dân Việt Nam cũng bị chia lìa, chồng xa vợ, vợ xa chồng vì tù đày, vì vượt biên, và mỗi người mỗi nẻo. Những người suy tư đến vận mạng dân tộc, đất nước muốn hai linh vật nầy được châu về hợp phố vì hai báu vật nầy vốn là vật bất khả phân.

     *Phần Chót: Rễ Gò Công – Cựu Hoàng Bảo Đại – Vị vua cuối cùng của Triều Nguyễn cũng là vị vua cuối cùng của Việt Nam đã qua đời lúc 5 giờ sáng ngày thứ năm ngày 31 tháng 7 năm 1997, thọ 83 tuổi.
     Đám tang của cựu Hoàng Bảo Đại đã được chính quyền nước Pháp, điện Elysée đứng ra lo liệu.
     Ngày chúa nhật 5 tháng 10 năm 1997, tại chùa Viện Phật Giáo Pháp ở ngoại ô Paris, có tổ chức một lễ cầu siêu 49 ngày cho cựu Hoàng Bảo Đại rất trọng thể gồm 1000 người Việt Nam tham dự, có cả bà chị ruột của Nam Phương là bà Bá Tước Didelot (92 tuổi), Hoàng Tử Vĩnh San, con vua Duy Tân, giáo sư Vũ Quốc Thúc cùng nhiều Ông Bà cùng thời với ông tham dự. (Bà Thứ Phi Monique không có mặt vì không được mời).
     Điều làm nhiều người Việt Nam tham dự ngạc nhiên và cảm động đến ứa lệ là Thái Tử Bảo Long – Mà người ta đồn rằng đã quên tiếng Việt – cảm tạ quan khách bằng tiếng Việt chững chạc, rõ ràng trên máy vi âm. Điểm đáng nói là các Hoàng Tử và Công Chúa mặc đại tang màu trắng tiến vào đại sảnh quỳ lạy trước bàn thờ rất thuần thục và đã lạy trả những người đến niệm hương. Sau buổi lễ các hoàng tử và công chúa trong tang phục đứng chờ ở cửa để ân cần cảm tạ quan khách từng người đúng cổ tục. Theo các báo chí, bưổi cầu siêu nầy đã quy tụ đầy đủ các tôn giáo như Công Giáo, Phật Giáo, Hòa Hảo, Cao Đài. Các người tham dự đều có một nhận xét chung là dù các con cái phải sống lưu vong nới đất khách từ lâu vẫn còn giữ truyền thống Việt Nam, thật xứng đáng là con của Cựu Hoàng.
    Ngoài ra, buổi lễ có treo cờ vàng ba sọc đỏ, có cử quốc thiều, có cử bài “Đăng Đàn Cung” và giữ phút mặc niệm rất trang nghiêm. Điều nầy cũng ghi cảm xúc đầy ý nghĩa cho những người tham dự về tinh thần Quốc Gia Dân Tộc.


     Trần Văn Nhựt

MADE IN CHINA


VÔ Đ


KKKK

Thứ Năm, 29 tháng 11, 2012

Sữa tươi ở bên Tàu


Bú sữa dê tươi kiểu này, chẳng trách đầu óc nghĩ ra được lắm điều hay... ho






"Nhân" nào đưa đến "Qủa" này !?




 -





 

"Con gái Vit bây gi mt hết duyên ri!!!"





Đó là câu kết lun ca người bn va đi du hc v ca tôi, sau hai ngày rong rui khp Hà Ni đ “bù đp ni nh quê hương” và “được” chng kiến nhng “pha shock óc” ca các bn tr Hà Thành.
Bn thân tôi cũng là con gái Vit, lúc đu cũng hơi “t ái” mt tý, nhưng nghĩ li thì phi công nhn điu đó. Mt b phn không nh trong s các bn n hin nay đang t biến mình thành nhng cô gái tóc vàng hoe kém duyên, làm nh hưởng nghiêm trng đến hình nh con gái Vit Nam.

 
Thương quá... tà áo dài Vit Nam
T đu tóc…
Ông bà ta vn có câu “cái răng cái tóc là góc con người”, nghĩa là điu đó rt quan trng đ to nên hình nh đp cho chúng ta. Và các bn tr, nht là các bn n bây gi đã “vn dng” điu đó trit đ, to nên s “khác bit tuyt đi” cho mình. Nhng cái đu nhum đ các th màu sc s, high light, đến kiu ct ngn như con trai ri dùng gel vut dng đng lên hay chĩa ra xung quanh, nhng kiu tóc xù bông lên như mt cái ni cơm đin ca các bn tr ni bt gia mt đám đông. Và điu đó nghĩa là các bn tr đã “đt được mc đích” ca mình: Ni bt! Tôi ch tò mò là vi nhng cái đu như vy, khi đi xe các bn có chu “hy sinh” tác phm ca mình đ đi mũ bo him không?
Đến qun áo
Gn đây xut hin nhng xu hướng thi trang dành cho các bn n rt “bt mt”. Kiu áo kín cng cao tường, đoan trang, đơn gin tr thành “dim xưa” và thay vào đó là nhng kiu áo làm “nóng mt” bao người:

Áo siêu mng, áo siêu ngn, áo siêu h… chính là xu hướng mi.

Áo th
ế này thì thà... đng mc cho xong 
Phi công nhn là nhng cô gái din nhng b đ kiu này thu hút s chú ý tht! Ngoài đường nguyên nhân ca mt cơ s nhng v tai nn giao thông có l cũng là t đây :D
"Tôi đp tôi có quyn khoe ch!"
Đp đim gì nh???
Trên đường ph thì nhìn đâu cũng thy ri, vào trường cũng được “b mt” luôn. Các n sinh hn nhiên din nhng b qun áo mát m, “thiếu trước ht sau” đến lp biến ging đường thành sàn catwalk.

"Hn nhiên" mc thi trang mát m ti trường
Tôi vn nh anh bn ngi cùng bàn đã “chế” 2 câu thơ ni tiếng ca c Hàn khi nhìn thy bn n bàn trên mc loi thi trang “nóng con mt bên trái, đ con mt bên phi”:
“Ôi áo thi trang, áo người ta
Áo em… mng quá nhìn xuyên qua!”
 

Không dng li trào lưu áo xuyên thu, qun áo đ các loi “siêu” (h, mng, ngn…) các bn tr còn khiến thiên l git mình, “shock vt vã” vì nhng “slogan đc” in trên áo.
"Tui nghèo k tui"
“Bng dưng mún y…” hay “Nghèo không phi là cái ti mà là phong cách sng” (???) được in chnh nh trước ngc hoc sau lưng áo ca teen “tung tăng” khp ph.

Trào lưu “khoe hàng”
Cái style trn mt, chu môi, to dáng xì tin khi chp nh “t sướng” ca teen đã đi vào dĩ vãng. Thay vào đó là nhng tư thế, nhng góc nh táo bo và shock hơn.
“Nếu bn có mt thân hình đp, mt làn da trng, mt đôi chân dài miên man bn phi khoe ra, phi trưng din thì mi người mi chú ý đến bn”. Đó chính là nhng tuyên b hùng hn ca Hương, cô sinh viên trường CĐ Múa Hà Ni.
Bn ch cn do mt vòng trên Facebook, blog hoc các trang mng xã hi là s được “b mt” vi hàng tá hình kiu na kín na h. Các bn n c tình “phơi” nhng đường cong tri phú trên mt blog, trang Fb cá nhân… Có bn thì theo phong cách “m ”, có bn thì… “phơi trn b”.

"Mt" kho thân trước webcam

Có nhiu cô đúng là tr thành “hot girl” sau màn “phơi da tht” trên mng. thì cũng “ni tiếng” hơn, được nhiu người “biết đến” hơn. Nhưng hình nh mà người ta biết đến đy ch cái mác ni lon, thiếu văn hoá, tế nh ti thiu ca mt người con gái. “Được biết đến” y cũng ch nhng li trêu gho, ong bướm ca nhng tay chơi và s bàn tán, xì xm ca mi người xung quanh. “Đi chác” chính hình nh và s yêu mến ca mi người đ ly cái danh hão “hot girl” và danh thc “hư hng” có đáng không?

Còn đâu nhng n sinh du dàng, trong sáng?

Thứ Ba, 27 tháng 11, 2012

Tuyên bố phản đối nhà cầm quyền TQ về hộ chiếu lưỡi bò


Tuyên bố phản đối nhà cầm quyền TQ về hộ chiếu lưỡi bò 

 

 

Chúng tôi, những người ký tên vào Tuyên bố này, cực lực phản đối hành động khiêu khích mới của nhà cầm quyền Trung Quốc cho in đường 9 đoạn bao trùm hầu hết Biển Đông (thường gọi là đường “lưỡi bò”) lên hộ chiếu cấp cho công dân nước mình. Hành động được tính toán này cho thấy nhà cầm quyền Trung Quốc ngoan cố tiếp tục thực hiện mọi thủ đoạn nhằm thôn tính Biển Đông, mở đường cho những bước leo thang mới của Trung Quốc trực tiếp xâm phạm chủ quyền quốc gia của các nước có liên quan trên Biển Đông, uy hiếp nghiêm trọng hòa bình và ổn định trong khu vực. Bước đi mới này bóc trần sự giả dối của các nhà lãnh đạo Trung Quốc khi nói tại Đại hội 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng như tại Hội nghị cấp cao Đông Á lần thứ 7 mới đây về hòa bình, hữu nghị và hợp tác với các nước, đặc biệt là các nước ven Biển Đông.

Đã có nhiều nước trên thế giới nghiêm khắc lên án những hành động trái luật pháp quốc tế này của nhà cầm quyền Trung Quốc và không chấp nhận hộ chiếu của công dân Trung Quốc có in hình xâm phạm chủ quyền nước khác. 

Chúng tôi ủng hộ tuyên bố ngày 22-11-2012 của người phát ngôn Bộ Ngoại giao nước CHXHCNVN, trong đó nêu rõ: “Việc làm trên của Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển liên quan đến Biển Đông”. Chúng tôi đồng tình với những việc làm của các nước trên thế giới lên án bước leo thang mới này của Trung Quốc trong việc thực hiện mưu đồ bành trướng. 

Chúng tôi đòi nhà cầm quyền Trung Quốc phải: 

- tôn trọng luật pháp quốc tế và chủ quyền của các quốc gia có liên quan trên Biển Đông, 

- từ bỏ mọi âm mưu “bẻ từng cái đũa trong bó đũa” chia rẽ các nước ASEAN trong vấn đề Biển Đông cũng như mọi việc làm cản trở sự thông qua Quy tắc ứng xử (Code of Conduct – COC) mà tất cả các quốc gia liên quan phải tôn trọng trên Biển Đông. 

Chúng tôi cùng nhân dân cả nước kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với các vùng biển và hải đảo của nước mình trên Biển Đông, đồng thời đoàn kết và cùng hành động với nhân dân các nước hữu quan đấu tranh cho hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển trên Biển Đông. 

Chúng tôi luôn luôn coi trọng tình hữu nghị với nhân dân Trung Quốc, mong nhân dân Trung Quốc hiểu đúng sự thật lịch sử và luật pháp quốc tế về biển, không bị lừa mị và kích động bởi chính sách bành trướng của nhà cầm quyền mang danh chủ nghĩa dân tộc. 

Chúng tôi, những người ký đầu tiên vào tuyên bố này mong đồng bào ở trong và ngoài nước tham gia ký tên để biểu thị sự đoàn kết nhất trí của dân tộc ta kiên quyết chống mọi hành vi xâm phạm chủ quyền quốc gia. 

Hà Nội – Huế – Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 25.11.2012 

ĐỒNG KÝ TÊN: 

1. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
2. Hoàng Tụy, GS TS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Viện IDS
3. Trần Việt Phương, nguyên chuyên gia tư vấn của các Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải
4. Trần Đức Nguyên, nguyên chuyên gia tư vấn của các Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải
5. Vũ Quốc Tuấn, nguyên Trợ lý Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên chuyên gia tư vấn của các Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải
6. Huỳnh Công Minh, Linh mục, Giáo phận Sài Gòn
7. Hồ Ngọc Nhuận, Ủy viên UBTƯMTTQVN, Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ TP HCM, nguyên Giám đốc chính trị nhật báo Tin Sáng
8. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
9. Lê Xuân Khoa, GS, Hoa Kỳ
10. Hà Dương Tường, nguyên GS Đại học Công nghệ Compiègne, Pháp
11. Đặng Lương Mô, GS TS, nguyên Viện trưởng Học viện Quốc gia Kỹ thuật Sài Gòn, nguyên GS Đại học Hosei, Tokyo, hiện là cố vấn Đại học Quốc gia TP HCM
12. Trần Văn Thọ, GS TS, Đại học Waseda, Tokyo
13. Lê Văn Tâm, TS, Ủy viên UBTƯMTTQVN, nguyên chủ tịch Hội Người Việt Nam ở Nhật, Tokyo
14. Nguyễn Ngọc Giao, dạy học, Pháp
15. Lê Đăng Doanh, nguyên chuyên gia tư vấn của Thủ tướng Chính phủ, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương 
16. Nhà thơ Hoàng Hưng, TP HCM
17. Hà Văn Thịnh, Đại học Khoa học Huế
18. Nguyễn Văn Dũng, võ sư, thành phố Huế
19. Trần Đắc Lộc, cựu giảng viên Đại học Khoa học Huế, hiện cư trú tại Cộng hòa Czech
20. Nguyên Ngọc, nhà văn, nguyên thành viên của Viện IDS
21. Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế TP HCM
22. Trần Quốc Thuận, Luật sư, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
23. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh, TP HCM
24. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
25. Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố HCM, TP HCM
26. Trần Văn Long, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn TP HCM, nguyên Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty du lịch Sài Gòn (Saigontourist), TP HCM
27. Kha Luơng Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn giải phóng
28. Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM
29. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh, TP HCM
30. Phạm Phú Ngọc Trai, Chủ tịch, Tổng Giám đốc Cty Tư vấn Hội nhập toàn cầu GIBC, Chủ tich Câu lạc bộ dẫn đầu LBC (Leading Business Club, VCCI), nguyên Chủ tịch, TGĐ PepsiCo, Indochina
31. Nguyễn Minh Thuyết, GS TS, nguyên Đại biểu Quốc hội, Hà Nội
32. Phan Thị Hoàng Oanh, TS, Đại học Sư phạm TP HCM 
33. Đào Duy Chữ, TS, Phú Mỹ Hưng, TP HCM
34. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
35. Trần Tố Nga, cựu tù chính trị, Pháp
36. Nguyễn Trọng Bình, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Tại chức Hải Phòng
37. Lê Thân, Cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Tổng Giám Đốc Riverside, Nha Trang
38. Tống Văn Công, nhà báo, nguyên Tổng biên tập báo Lao Động
39. Phạm Xuân Phương, đại tá, cựu chiến binh, Hà Nội
40. Phạm Khiêm Ích, PGS, Ủy viên UBTƯMTTQVN, nguyên Phó Viện trưởng Viện Thông tin thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam
41. Nguyễn Huệ Chi, GS, Hà Nội
42. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Đại học Bách khoa, Đà Nẵng, Phó Tổng thư ký Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam
43. Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội
44. Hoàng Dũng, PGS TS, Đại học Sư phạm TP HCM
45. Phạm Văn Đỉnh, TSKH, nguyên giảng viên Đại học UPPA (Pau, Pháp)
46. Nguyễn Phúc Cương, PGS TS, bác sĩ, Hà Nội
47. Nguyễn Gia Hảo, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội
48. Nguyễn Hữu Việt Hưng, GS TSKH, giảng viên cao cấp Đại học Quốc gia Hà Nội
49. Phan Quốc Tuyên, kỹ sư tin học, Thụy Sĩ 
50. Nguyễn Thịnh Lê, TS, nghiên cứu giảng dạy tại Clausthal University of Technology, CHLB Đức 
51. Nguyễn Thế Thanh, nguyên Phó Giám đốc Sở VH-TT TP HCM
52. Phạm Chi Lan, nguyên chuyên gia tư vấn của Thủ tướng Chính phủ (1996-2006), Hà Nội
53. Phạm Công Cường, TS, Hà Nội
54. Trần Minh Hải, Linh mục Công giáo, Gwangju, Hàn Quốc
55. Hoàng Lại Giang, nhà văn, TP HCM
56. Nguyễn Xuân Diện, TS, Viện Hán Nôm, Hà Nội
57. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo 
58. Nguyễn Quang Lập, nhà văn
59. Võ Quang Dũng, Việt Kiều, CHLB Đức 
60. Phạm Quang Tú, Phó Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển 
61. Nguyễn Quốc Bình, kỹ sư cấp thoát nước TP HCM 
62. Trần Công Thạch, hưu trí, TP HCM
63. Nguyễn Vạn Hồng (Cung Văn), nhà báo, nguyên Tổng Thư ký BCH SV Đoàn Đại học Văn khoa Sài Gòn 1964-1965
64. Lương Thị Thuỷ, Hà Nội
65. Nguyễn Thị Khánh Trâm, TP HCM
66. Trần Ngọc Tuấn, nhà báo, nhà văn, báo Xa Xứ tại Cộng Hòa Czech
67. Tô Văn Trường, TS, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam
68. Phan Thế Vấn, bác sĩ, TP HCM 
69. Phạm Gia Khánh, cán bộ hưu trí, 92 tuổi, TP HCM 
70. Đoàn Công Nghị, Nha Trang
71. Nguyễn Xuân Hoan, chuyên viên kinh tế, TP Pleiku, Gia Lai
72. Lê Duy Mạnh, Sinh viên, Trung Đô – Vinh – Nghệ An
73. Nguyễn Quang Thạch, phụ trách chương trình sách hóa nông thôn Việt Nam, Hà Tĩnh
74. Đại tá Bùi Văn Bồng, Cần Thơ
75. Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam Chất Lượng Cao, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh doanh và Hỗ trợ doanh nghiệp – BSA
76. Nguyễn Kim Khánh, nhà báo nữ, Phó Tổng biên tập Tạp chí Thương gia, Hà Nội
77. Dennis Ho, Hoa Kỳ
78. Nguyễn Phương Tùng, PGS TS, TP HCM 
79. Phạm Thanh Liêm, Vũng Tàu
80. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, Giám đốc Chi nhánh phía Nam NXB Hội Nhà văn 
81. Tô Oanh, TP Bắc Giang
82. Khai Tâm, Nhật Bản 
83. Phí Văn Lịch, nguyên Vụ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội
84. Đạt Nguyễn, Surveyor, Australia
85. Trần Hữu Khánh, hưu trí, TP HCM 
86. Nguyễn Công Thanh, TP HCM
87. Nguyễn Đăng Hưng, GS TSKH, Giáo sư Danh dự Thực thụ Đại học Liège 
88. Nguyễn Hoàng Hải, CHLB Đức
89. Nguyễn Hồng Phương, CHLB Đức
90. Minh Trình Nguyễn, cựu chiến binh, cựu cán bộ nghiên cứu Viện Mác-Lênin, Hà Nội, CHLB Đức
91. Thị Bích Hằng Nguyễn, CHLB Đức
92. Trần Quang Thái, Tổng Thư ký, Phó Chủ tịch thường trực, Hội Hữu nghị Việt-Séc TP. Hồ Chí Minh
93. Nguyễn Cảnh, Hoa Kỳ
94. Đoàn Nhật Hồng, nguyên Giám đốc Sở Giáo dục Lâm Đồng, Đà Lạt
95. Mai Thái Lĩnh, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Đà Lạt
96. Huỳnh Nhật Hải, nguyên Phó Giám đốc Trường Đảng Lâm Đồng
97. Nguyễn Quang Nhàn, hưu trí, Đà Lạt
98. Phan Đắc Lữ, nhà thơ 
99. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM 
100. Đinh Xuân Dũng, cựu dân biểu Sài Gòn, Hoa Kỳ
101. Đỗ Trung Quân, nhà thơ, TP HCM
102. Đặng Ngọc Quang, Phú Thọ
103. Lương Đình Cường, Tổng biên tập báo điện tử NguoiViet, CHLB Đức
104. Phạm Lê Vương Các, sinh viên Luật, TP HCM
105. Nguyễn Đình Hòa, Sales Engineer Văn phòng đại diện AL-KO THERM
106. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TP HCM
107. Huy Đức, nhà báo, TP HCM
108. Hồ Văn Chiến, hưu trí, TP HCM
109. Lê Tấn Hùng, TP HCM
110. Hoàng Quý Thân, PGS TS
111. Lê Mạnh Chiến, hưu trí, Hà Nội
112. Trần Xuân Huyền, lao động tự do, Nghệ An
113. Nguyễn Xuân Liên, Giám đốc Bảo tàng chiến tranh ngoài trời Vực Quành, Quảng Bình
114. Nguyễn Đức Thọ, Hà Nội
115. André Menras – Hồ Cương Quyết, Pháp
116. Nguyễn Văn Kích, nguyên Vụ trưởng, thành viên Ban Nghiên cứu Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải
117. Phạm Quang Tú, Phó Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển, Hà Nội
118. Nguyễn Trọng Nhân, nhiếp ảnh, Tiền Giang
119. Trần Minh Phú, Đà Nẵng
120. Nguyễn Quốc Bình, kỹ sư cấp thoát nước, TP HCM
121. Đặng Danh Ánh, hưu trí, TP HCM
122. Nguyễn Văn Mỹ, Giám đốc công ty du lịch Lửa Việt
123. Nguyễn Quốc An, hưu trí, Hà Nội
124. Bùi Phương Linh, chuyên viên, Hà Nội
125. Đào Thanh Thủy, hưu trí, Hà Nội
126. Hoàng Thị Nhật Lệ, cán bộ về hưu, TP HCM
127. Hà Thúc Huy, PGS TS, Đại học Khoa học Tự nhiên TP HCM
128. Võ Văn Tạo, nhà báo, Nha Trang, Khánh Hòa
129. Phạm Văn Quang, TS, giảng viên đại học, Đồng Nai
130. Đào Thanh Thủy, hưu trí, Hà Nội
131. Vũ Quang Chính, nhà lý luận phê bình phim, Hà Nội
132. Nguyễn Thị Minh Lê, Hà Nội
133. Nguyen Thi Minh Dung, Doctor of Pharmacy, Hoa Kỳ
134. Nguyễn Hữu Chuyên, giáo viên, Thái Bình
135. Tôn Đức Hải, kỹ sư, hai.ton@truongtonco.com
136. Nguyễn Trọng Huấn, kiến trúc sư, nguyên Tổng biên tập báo Kiến trúc và Đời sống
137. Mai Nguyen, giáo viên, Hoa Kỳ
138. Nguyễn Cảnh, Hoa Kỳ
139. Nguyễn Quốc Cẩm, công dân Hà Nội
140. Nguyễn Mạnh Cường, kỹ sư, luật sư, TP HCM
141. Nguyễn Tiến Tài, hưu trí, Hà Nội
142. Phạm Quỳnh Hương, nhà xã hội học, Hà Nội
143. Tương Lai, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, thành viên của Viện IDS, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam