Bài đăng phổ biến

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013

SÒNG PHẲNG


NÓI VỀ MỘT NGƯỜI ANH EM
(từ Blog Bảo Mai)

Cô giáo Ngụy


image


'Cô giáo Ngụy, cô giáo Ngụy sắp vô lớp đó nghe tụi bay ...'

Một đứa học trò la lớn. Bọn con trai mấy đứa con trai đang quây quần cuối lớp khác chơi trò 'dích' hình, đứa nào đứa nấy tóm vội vã thâu tóm lại mấy tấm hình màu bằng bìa cứng có in hình sặc sỡ. Bọn con gái đang tụm ba tụm bảy nói chuyện nô đùa cũng vội vàng quay về chỗ cũ. Cô giáo Mai lễ mễ ôm phần chia nhu yếu phẩm của cô tháng này, gồm mấy trăm gam thịt, mấy trăm gam đường bước vào lớp. Cô bước vào lớp, tất cả học sinh đứng lên chào. Sau khi để gói thịt, gói đường cẩn thận vào trong giỏ. Cô mĩm cười:
- Cô cho các trò ngồi xuống. Các trò làm chi ồn rứa bộ định làm loạn giống...

Mai định nói làm loạn giống 'Việt Cộng' như thói quen cô vẫn nói khi la rầy học trò trước kia, nhưng cô ngưng lại kịp. Sau khi nghe em lớp trưởng điểm danh, cô bắt đầu khảo bài. Học trò của cô phần nhiều thuộc những gia đình mà chính quyền mới gọi là thành phần có nợ máu với nhân dân hoặc có vấn đề với 'cách mạng'. Hầu hết cha của các em đang bị cầm tù trong các trại tập trung cải tạo. Thêm vào đó có khoảng một vài em thuộc gia đình cán bộ Cộng Sản cao cấp mới vào Nam. Phần đông các học trò miền Nam những năm đầu sau khi bị 'giải phóng' các em học trò miền Nam còn rất ngoan và kính trọng thầy cô, và ngược lại thầy cô miền Nam cũng còn coi công việc gõ đầu trẻ là một thiên chức chứ không phải thuần túy là một để sinh nhai. Mai ra trường Sư Phạm Đà Nẵng đi dạy được hai năm thì miền Nam mất. Cô được chính quyền mới cho đi dạy lại vì theo họ lý lịch của cô tương đối khá sạch, từ ông bà xuống tới cha mẹ không có ai làm lớn trong chính quyền cũ.
Sáng nay như thường lệ sau khi khảo bài cũ cô bắt đầu dạy bài mới. Trước bảng đen Mai nắn nót viết bài học Pháp văn cho tiết học hôm nay trên bảng đen.

Mardi 26 Septembre 1977
Conjuguez le verbe "Etre" Je suis Tues Il est ...

Bỗng một tiếng thét lớn:
- Thưa cô trò Hùng cú đầu con!

Mai nhịp nhịp cái thước gỗ vào bảng không trả lời, cả lớp lại im lặng như tờ chỉ có tiếng bút mực sột soạt trên giấy. Cô tiếp tục viết bài học lên bảng đen.Elle est ...

... Thưa cô trò Hùng bóp… cu con...!

Cũng là cái giọng học trò hồi nãy, và lần này cả lớp phá lên cười như ong vỡ tổ. Cô Mai nghiêm mặt quay lại bảo:
- Hùng, Quang hai em lên đây!



image
Hình minh họa
Hai đứa học trò lớp Sáu, ngồi cạnh nhau một đứa đen đủi nhỏ thó tướng tá loắt choắt nghịch ngợm, áo bỏ ngoài quần và một đứa mặt mũi trắng trẻo dáng điệu mảnh khảnh. Cả hai lấm lét bước lên phía trên. Tuy có hơi giận vì học trò tinh nghịch, nhưng cô Mai vẫn chậm rãi hiền từ:
- Có phải Hùng phá Quang không?' Hùng cúi đầu không đáp, cô Mai lại hỏi lần này giọng nghiêm khắc hơn:
- Có phải em phá bạn làm mất trật tự trong lớp không?' Hùng nhìn lên trả lời lí nhí:
- Không ạ!' Lần này thì thằng Quang la lớn: 
- Nó xạo, nó cú đầu con rồi bóp ... ' Mai đưa một ngón tay lên môi ra hiệu cho Quang đừng nói nữa không thì cả lớp lại cười như vỡ chợ. Có nhiều tiếng nhao nhao: 
- Trò Quang nói đúng đó cô, thằng Hùng nó có làm đó, ... nó còn viết bậy lên lưng áo em nè... Thằng Hùng chợt đưa tay làm thành nắm đấm đôi mắt căm hờn:
- Chúng ông sẽ cho tụi mày biết tay nhé ... chúng ông cho bố bọn mày đi cải tạo cứ là đờ người nhé... Lần này thì cô Mai thật sự giận dữ:
- Trong lớp của cô hay bất cứ đâu em cũng không được phép hỗn láo vô phép với người lớn nghe chưa? Nghe rõ chưa? Em Hùng đến góc kia quay mặt vào tường cho đến hết buổi. 

Buổi dạy học tưởng như bình thường sáng hôm đó đem đến cho Mai nhiều chuyện bất ngờ sau này. 

Vài ngày trong khi lớp Pháp văn của cô đang làm bài kiểm tra, người tùy phái đến lớp của cô mời cô xuống văn phòng hiệu trưởng có chuyện cần. Mai hỏi: 
- Có chi quan trọng rứa bác Tam? Lớp tôi đang làm bài thi làm răng mà bỏ đi? Bác nói đợi tới hết giờ rồi tôi sẽ xuống bác hỉ! Người tùy phái già trả lời: 
- Dạ tui cũng nói như rứa với bà hiệu trưởng và ông khách, nhưng họ có chịu nghe mô. O xuống nhanh đi, nghe nói ông khách nớ làm lớn lắm. Mai đáp: 
- Bác Tam à, tôi không thể xuống được ngay bây chừ, bác xuống văn phòng giải thích dùm tôi...


image
Hình minh họa
Ông Tam quày quả đi ra. Khoảng vài phút sau một người đàn ông đội nón cối đeo mắt kính đen, tay đeo cái đồng hồ Seiko5 vàng sáng chói, nước da men mét, hàm răng hơi vỗ, mặc quân phục rộng thùng thình, vai đeo xà cạp, ngang nhiên bước thẳng vào lớp, theo sau là ông Tam. Con Trang lớp trưởng sau một vài giây ngỡ ngàng vì người khách vào lớp bất ngờ, nhanh nhẹn hô lớn 'Nghiêm!' Cả lớp buông bút viết, đứng thẳng chào khách. Lần này thì đến lượt người đàn ông đội nón cối đeo mắt kính đen ngỡ ngàng và ngạc nhiên đến độ lúng túng, cô giáo Mai đứng trên bục giảng lễ độ hỏi: 
- Thưa ông có việc gì cấp thiết không ạ? Người đàn ông nhìn lên lúng búng trả lời:
- À không, tôi chỉ muốn nói chuyện với cô một vài vấn đề, nhưng bây giờ tôi sẽ đợi cô dưới văn phòng. Cô Mai từ trên bục gỗ bước xuống từ tốn: 
- Dạ cám ơn ông, xin ông thông cảm, lớp đang làm bài kiểm tra tôi không thể tiếp chuyện ngay với ông. 

Hết giờ Pháp văn cô Mai vội vã xuống văn phòng hiệu trưởng. Bước vào cô hơi ngạc nhiên khi chỉ thấy có ông khách đang chễm chệ ngồi sau bàn giấy của bà hiệu trưởng. Ông khách đưa tay mời cô ngồi. Ông ta vẫn còn đeo đôi kính Rayban đen trong căn phòng không có cửa sổ. Cô Mai bất giác muốn phì cười, nhưng ngăn lại kịp. Ông khách tự giới thiệu:
- Chắc cô không biết tôi là ai, nên không xuống gặp tôi ngay. Cô Mai trả lời ngay:
- Dạ thưa tôi biết ông là người rất quan trọng nhưng vì bài kiểm tra này quan trọng đến kỳ thi học kỳ của các em...
Ông khách ngắt lời:
- Ô! Không không tôi có ý phiền trách gì cô đâu, thực ra thì lúc cô không xuống ngay tôi giận lắm, vì ngoài Bắc mỗi khi tôi vào trường con tôi học là giáo viên phải đến gặp tôi chứ tôi không bao giờ phải lên kiếm giáo viên cả. Cô Mai trả lời:
- Dạ trong ni chắc còn lạc hậu, không biết bao chừ mới theo được bằng ngoài nớ...

Cô Mai không biết ông khách đang nghĩ gì và ánh mắt phản ứng ra sao sau cặp kiếng đen. Ông trầm ngâm một chút rồi nói: 
- Bây giờ thì tôi hết giận rồi cô ạ. Tôi xin tự giới thiệu, tôi là Thượng Tá Trần Kình, Chính ủy của Trung đoàn Không quân Tiềm kích 935 đóng tại căn cứ Không quân Đà Nẵng. Con tôi là Trần Hùng học trong lớp của cô, vài hôm trước đây nó có phản ánh phê bình cô có khuynh hướng bảo vệ bọn con cái thành phần chống cách mạng. Cô Mai nghĩ sao?

Mai thật sự ngạc nhiên, dầu miền Nam đã bị chiếm đóng hơn hai năm, bởi một đạo quân nói cùng một ngôn ngữ và cùng chung màu da với cô nhưng cô vẫn chưa thật sự chưa hiểu hết về cách suy nghĩ, giao tế của người cộng sản.



image
Hình minh họa
Cô trả lời chậm rãi:
- Thưa ông Kình, tôi không biết phải trả lời ông ra sao. Tôi là một người thầy giáo chuyên nghiệp, tôi dạy bất cứ học sinh nào được giao phó cho tôi, tôi không phân biệt đối xử các em theo thành phần gia đình... hơn nữa các em khi sinh ra cũng không có sự lựa chọn về lý lịch của cha mẹ. Lý lịch cha mẹ các em theo ý tôi không thuộc phạm vi học đường. Còn việc tôi phạt em Hùng là vì em đã phá rối trật tự trong giờ dạy học của tôi. Tôi bảo đảm không có vấn đề bênh vực thành phần giai cấp gì đó.... 

Người đàn ông tên Kình, ngồi thẳng lên đan hai bàn tay vào nhau:
- Đó là tư duy của tôi cách đây nữa giờ cô Mai ạ. Sau khi tôi lên lớp của cô thấy việc các em lễ phép chào khách, bàn cô giáo có lọ hoa, các em quần áo chỉnh tề tôi rất lấy làm ấn tượng. Tôi thành khẩn với cô nhá, tôi chưa thấy trường nào ngoài Bắc học trò có văn hóa như lớp của cô. Tôi rất mừng thằng Hùng được cô dạy. Thôi thì thế này nhé, cô cứ công tác tốt, tôi sẽ bảo với đồng chí hiệu trưởng bỏ lời phê bình tiêu cực của tôi về cô đi. Coi như không có sự cố gì cô Mai nhé.

Mai mĩm cười:
- Dạ nếu ông đã dạy thế thì tôi rất vui. Nhưng tôi không dám nhận hết lời khen của ông, vì trong Nam này trường nào lớp nào cũng đứng nghiêm, chào khách chào thầy cô. Còn chuyện trang hoàng lọ hoa cho bàn thầy cô thì quả thật là công khó của các em học sinh nữ của lớp tôi đã tự ý hái hoa đồng cỏ dại trang điểm cho lớp học, không phải do tôi dạy bảo.

Ông Kình cười:
- Cô không tuyên truyền cho miền Nam đấy chứ ? Ồ! Tôi chỉ đùa thôi cô ạ, vâng tôi tin cô nói sự thật. Còn vấn đề này nữa, sao tôi không thấy lớp cô Mai treo ảnh Bác nhỉ?

Mai thán phục sự quan sát của người đàn ông này, chỉ có ít phút trong lớp mà ông Kình đã nhận xét được biết bao nhiêu là chuyện. Cô có biết đâu ngoài Bắc người ta treo hình bác Hồ cũng như trong Nam người ta treo cái gương chiếu yêu trước cửa nhà, để xua đuổi ma quỉ. Việc treo hình của ông Hồ là một điều bắt buộc, nhà nào cơ quan nào mà không có gương mặt lom lom, cười cười của ông Hồ là có vấn đề lớn. Thành thói quen, nhiều người treo hình bác Hồ như một sự thông báo cùng hồn ma bóng quế nhà tôi có chúa quỉ ở đây nhá! Các ngài ma quỉ hồn ma bóng quế tép riu liệu mà xéo đi... Mai ngẫm nghỉ một lúc rồi bảo: 
- Hình như một năm trước đây tôi nhớ có treo, nhưng vì lớp học xây dựng bằng phương pháp tiền chế, vật liệu là sắt và tôn ximăng cho nên đinh đóng vào tường không chắc, bức hình lộng kiếng của Bác bị rơi xuống vỡ nát ông ạ. 

Ông Kình hỏi:
- Thế thì sao không báo cáo và thay ngay đi, hồi trước giải phóng các thầy, các cô trong Nam treo ảnh Thiệu ra sao mà bây giờ lại nói đóng đinh không được? Cô Mai cười xoà:
- Trước giờ trong này không có lệ treo hình lãnh tụ trong nhà riêng hay trong lớp học. 



image
Điều này thì ông Kình có thể tin, vì khi Trung đoàn 935 tiếp thu căn cứ KQ Đà Nẵng ông cũng hơi ngạc nhiên khi thấy không có văn phòng, cơ sở nào có treo hình tổng thống Thiệu cả. Nhưng ông đã tự giải thích rằng chắc cũng như ảnh Bác là biểu tượng thiêng liêng bọn ngụy khi di tản đã đem ảnh của Thiệu theo để tỏ lòng yêu kính lãnh tụ, như cái đồng chí gì đấy ở ngoài Bắc, nhà cháy nhưng đồng chí ấy cố xông vào để cứu ảnh Bác, trước khi cứu con trai ruột của mình... Ông chợt thốt lên:


- À, công tác chính trị đảng cầm quyền của Thiệu yếu nhỉ!... À này tôi có xem lý lịch của cô, khá trong sạch và cũng thuộc thành phần cơ bản đấy, cha cô là công nhân sở điện, mẹ làm cho hãng dệt, không hiểu sao trường chưa cho cô vào đối tượng Đoàn? Để tôi giúp cho nhé? Mai im lặng một chút rồi nói:


- Chuyện hơi dài ông ạ, sợ kể ra đây làm mất thì giờ của ông, nhưng đây không phải chi bộ Đoàn sơ xuất đâu mà là hoàn toàn do tôi cả. Ông Kình hơi nhổm người về phía trước:


- Tôi không dám tò mò, nhưng nếu cô muốn kể thì tôi không sợ mất thì giờ cô ạ, tôi muốn tìm cách giúp cô. Cô Mai yên lặng một lúc, ánh mắt cô trở nên xa xăm, rồi cô chậm rãi kể.

Chuyện xảy ra cũng gần một năm về trước. Mai gặp lại người bạn học cũ, Đoàn Đình Bình, Bình đã theo cha vô bưng sau cuộc 'tổng khởi nghĩa' thất bại của cộng sản tại Huế năm 1968. Cả lớp của Mai khi ấy không biết Bình đi đâu hay đã bị chết thảm dưới bàn tay của Việt Cộng khi Bình về ăn tết ở Huế. Đầu năm 1976 Bình được bổ về làm bí thư chi bộ Đoàn Thanh Niên Cộng Sản tại trường của Mai đang dạy. Lúc đầu hai người không nhận ra nhau, nhưng Mai nhớ ngờ ngợ cái tên người bạn cũ Đoàn Đình Bình, nên sau một lần họp giáo viên Mai hỏi phải Bình hồi nhỏ có học trường tư thục Bình Minh tại Đà Nẵng không? Hai người nhận ra nhau, rồi trở nên đôi bạn thân. Mai rất trân quí những kỷ niệm và bạn học của ngày xưa thời học trò. Còn Bình thì cũng vui mừng được gặp lại người bạn xưa của ngôi trường đầy tuổi thơ êm đềm trước khi phải ra Hà Nội để bị hấp thụ một nền giáo dục rất ư 'vô giáo dục'. Qua một thời gian, Bình âm thầm yêu Mai và muốn tiến xa hơn với Mai, nhưng trước hết phải giới thiệu được cho Mai vào đối tượng Đoàn, thì việc xin lãnh đạo chấp thuận cho cưới Mai sẽ dễ dàng và vinh dự hơn nhiều. Không hỏi ý kiến Mai, vì muốn dành cho bạn một sự ngạc nhiên mà theo ý Bình đây cũng là một vinh dự cho Mai. Bình mời Mai tham dự một buổi họp Đoàn và tuyên bố đề nghị cho Mai được làm đối tượng Đoàn Thanh Niên CS, sau khi đã đọc lý lịch trích ngang trích dọc của Mai trước mặt mọi người để minh chứng Mai thuộc thành phần tốt. Về phần Mai khi nhận lời dự buồi họp chỉ vì nể Bình và cũng có đôi chút tò mò muốn biết khi họp Đoàn ngưòi ta rù rì rủ rỉ cái chi. Mai không ngờ việc xảy ra như thế. Khuôn mặt của Mai từ trắng chuyển sang hồng, Mai im lặng. Cả phòng họp nghĩ là Mai quá xúc động trước cái đặc ân to lớn kia. Một lúc sau Mai mới run run nói:



image
Hình minh họa
- Cảm ơn anh Bình đã giới thiệu Mai, nhưng Mai không hoàn toàn thuộc thành phần tốt như cách mạng định nghĩa đâu, và cũng không đủ tiêu chuẩn vào Đoàn. Mai đã có chồng, mặc dầu chưa chính thức trên giấy tờ. Chồng của Mai là phi công của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa. Câu sau cùng Mai nói chậm, dõng dạc từng chữ như lời tuyên bố. 


- Lỗi tại Mai, Mai đã không kể cho anh Bình nghe, vì Mai nghĩ đó chuyện riêng tư, nhưng bây giờ thì bắt buộc Mai phải nói . Cả phòng họp lặng thinh, không ai biết phải phản ứng như thế nào, còn Bình đứng sững như trời trồng bên cạnh Mai. Một hai phút sau đó anh lắc đầu và bỏ ra ngoài. Mai chạy theo Bình ra đến khoảng sân vắng nói khẻ với Bình.


- Mai xin lỗi nhé, nhưng nếu Mai không nói thì suốt đời Mai sẽ áy náy lắm... Bình quay lại hằn học:


- Tại sao Mai không cho tôi biết, Mai làm tôi ngượng trước mặt bao nhiêu người, mà những điều Mai nói là thật hay bịa đặt vậy? Bình đã hỏi thăm người ta ở chỗ Mai thưòng trú họ nói là Mai chắc chắn còn độc thân mà... Bình thật không ngờ, không ngờ. Mà nếu điều Mai nói là sự thật Mai có yêu thằng đó - xin lỗi anh đó không?

Mai ngạc nhiên về thái độ gần như ghen tương của Bình, Mai không nói gì từ từ kéo sợi dây chuyền từ trong cổ và tháo ra một chiếc nhẫn, loại nhẫn mà phi công sau khi ra trường bên Mỹ thưòng đeo. Mai nói thong thả:
- Mai có chồng thật chứ, nhẫn cưới của anh ấy trao cho Mai đây này...
Bình bưng hai tai không muốn nghe thêm chạy thất thểu ra khỏi cổng. 

Ông Kình, chép miệng:
- À ra thế, thế thì gay đấy, Đoàn hay Đảng có quyền từ chối đối tượng chứ có ai có gan dám từ chối vào Đoàn vào Đảng... À anh chồng của cô bây giờ ở đâu? Còn ở đây hay di tản rồi?



image
Hình minh họa
Mai nhớ lại câu chuyện các thực tại chưa xa lắm, vào một ngày cuối tháng Ba năm 1975. Anh Nguyễn Bé Tư, phi công F-5E biệt phái từ Biên Hoà ra. Hai người quen nhau từ mùa xuân 1974 trong một buổi văn nghệ ủy lạo, trường của Mai tổ chức để ủy lạo chiến sĩ. Năm 1975, một ngày trước khi Đà Nẵng bị thất thủ, anh đã gặp Mai. Anh không nói gì nhưng qua nét mặt âu lo của anh, Mai biết là tình hình chiến sự ngày càng xấu đi. Anh dẫn Mai đi ăn tối ở nhà hàng Bạch Đằng trên bờ sông Hàn, hai người cố tránh không nói gì về chiến tranh để được một lần hẹn hò trọn vẹn. Gần lúc chia tay, anh rút cái nhẫn ra trường bên Mỹ đeo vào ngón tay Mai và nói: 
- Anh muốn cùng em sống đến cuối cuộc đời, em có thuận làm vợ của anh không?


Mai không nói được gì, chỉ khe khẽ gật đầu nước mắt bắt đầu tuôn vì xúc động và vui sướng. Mai đã là phu nhân của Nguyễn Bé Tư từ ngày ấy. Trong buổi tối ngắn ngủi đó hai người đã vẽ ra biết bao nhiêu là mộng đẹp, về ngày cưới về gia đình tương lai...

Đêm đó anh Tư phải vào trực tác chiến trong phi đoàn. Ngày hôm sau thì Đà Nẵng mất, Mai tìm cách về Sài Gòn vào hỏi bộ Tư Lệnh Không Quân về tin tức của anh Tư. Mai còn nhớ mấy người lính Không Quân ai cũng lắc đầu nhìn chị thương cảm ái ngại . Kể từ đó cái tên Nguyễn Bé Tư mộc mạc đối với Mai như thuộc về một kiếp nào rất gần mà rất xa xăm. Nhưng cô lúc nào cũng tự nhận là người vợ âm thầm của người phi công Nguyễn Bé Tư. Câu chuyện cô Mai từ chối vào Đoàn Thanh Niên Cộng Sản được đồn ra, được thêm thắt, và từ đó học trò gọi đùa cô Mai là 'Cô giáo Ngụy'. Cô nghe nhưng không bao giờ la rầy các em vì biết các em không có ý xấu, ngược lại các em từ đó rất kính nể cô, mấy đứa con trai có cha anh là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa, nói cô Mai chịu chơi và 'chì' lắm . Mỗi khi nghe ai kêu 'Cô giáo Ngụy' Mai mĩm cười hạnh phúc tự nhủ: 'Ừ, Ngụy thì Ngụy mình thua thì người ta gọi mình là giặc. Ngày xưa Gia Long cũng gọi Bắc Bình Vương Quang Trung, Tây Sơn là 'Ngụy' đó thôi!'

Giáng sinh 1980.

Sau nhiều lần vượt biên hụt, Mai bị đuổi không cho dạy nữa. Cô sinh sống bằng việc lấy mối rau quả và bán lại ở chợ. Một buổi chiều ông Kình ghé ngang hàng của cô lựa lựa mấy bó rau hồi lâu. Cô không nhận ra ông vì bây giờ ông coi có da thịt hơn trước nhưng lại già hẳn đi, và không còn đeo kính cặp kính Rayban nữa. Đến khi hết khách ông mới khẻ bảo:
- Gớm! Cô không nhận ra tôi à? Kình đây, tôi kiếm mãi mới biết cô bán hàng ở đây, tôi có thể gặp riêng cô để nói một chuyện quan trọng không? Tôi sẽ dàn xếp chỗ gặp, cô nhớ đến nhé. 
Buổi chiều hôm đó tại một căn biệt thự, ông Kình đề nghị cô Mai dẫn Hùng con ông đi vượt biên ông sẽ lo mọi chuyện. 

Mai dường như không tin vào tai của mình: 
- Ông không nói đùa chứ? Ông Kình nhìn cô cười:
- Tôi nghĩ là cô sẽ nói thế. Lời đề nghị của tôi rất nghiêm túc nói như người Sài Gòn là 'một trăm phần dầu' cô ạ. Sau năm năm ở miền Nam tôi thấy chế độ CS đã làm băng hoại mọi sự cô ạ. Những năm chiến tranh thì người ta còn có thể biện minh nhưng khi vào miền Nam thì tôi nhận xét thấy giá trị đạo đức nói chung là trong Nam ưu việt hơn ngoài Bắc. Sau năm năm thì tôi thấy con người CS đã làm cho miền Nam ngày càng tồi tệ càng ngày càng giống như miền Bắc. Tôi đã thấy điều đẹp đẽ trong một xã hội văn minh, tôi không thể nào quay về những cái thấp hèn mà tôi đã mù quáng tôn sùng. Tôi muốn con trai tôi ra đi, tôi không muốn thấy nó trở nên một bánh xe trong cái cỗ máy thống trị này. Nếu cô hứa dẫn nó đi, chăm sóc nó đến năm 18 tuổi tôi sẽ lo tất cả mọi chi phí phương tiện ra đi cho cô. 
Lý do tôi nhờ đến cô vì thứ nhất tôi biết cô muốn ra đi và thứ hai cô là nguời rất thật thà, chung thủy. Ngay cả trong người thân tôi cũng không thể thố lộ kế hoạch này hay nhờ ai vì lý do an ninh và tính mạng của tôi, chỉ có cô mới giúp được tôi.



image
Hình minh họa
Chuyến vuợt biên của cô do công an Đà Nẵng tổ chức bến bãi, nên việc ra đi phải nói là rất chu đáo. Chuyến đi thật suông sẽ. Tàu vượt biên của Mai sau 5 ngày lênh đên đã cập bến Hương Cảng bình yên vô sự. Tại đây Hùng gặp lại gia đình một người bà con xa ở Hải Phòng đã đến Hương Cảng trước đó một tháng. Hùng muốn nhập chung form định cư với họ. Mai không đồng ý, qua một người trung gian cô gửi thư về Việt Nam hỏi ý kiến ông Kình. Vài tuần sau, Mai được ông cho biết là ông bằng lòng cho Hùng 'tách form' với cô, và coi như lời hứa của cô đối với ông đã hoàn thành. Khi được cao ủy phỏng vấn Cô giáo Mai chọn thành phố Sydney xinh đẹp của quốc gia Úc Đại Lợi làm nơi định cư. Còn Hùng thì theo bà con định cư tại Canada. Cô Mai đi học lại lấy bằng kỹ sư điện toán, cô rất nhân hậu nhã nhặn nên được rất nhiều người khác phái theo đuổi, nhưng không có ai có thể thay được hình ảnh của người phi công ngày nào. Trong những năm gần đây khi các hội thân hữu Không Quân QLVNCH được thành lập tại Úc, người ta thường thấy cô trong những buổi họp mặt. Mai tham gia mọi sinh hoạt, báo chí văn nghệ. Câu hỏi đầu tiên cô hỏi những người lính Không Quân mà cô gặp lần đầu lúc nào cũng là: Có ai biết tin tức gì về anh Nguyễn Bé Tư phi công F-5E biệt phái ở Đà Nẵng hay không? Cô Mai không biết là lần thứ mấy đã hỏi câu hỏi đó, cô hỏi nhưng chính cô rất sợ câu trả lời về số phận của một người mất tích đã hơn hai mươi lăm năm.

Tháng Tư 1998.

Hùng đứa học trò ngày xưa của cô từ Canada qua thăm cô giáo Mai. Hai thầy trò gặp nhau mừng mừng tủi tủi sau mười bảy năm. Hùng bây giờ là một thanh niên tuấn tú lễ phép, rất chững chạc và là một bác sĩ y khoa. Hùng báo cho cô Mai biết là ông Kình đã giải ngũ về hưu, và ông đã tỉnh ngộ hẳn giấc mơ cộng sản và sống rất an phận tại Hà Nội. Trước lúc chia tay, Hùng đưa cho cô Mai một phong thư niêm kín, 'Em cũng chẳng rõ có cái gì trong ấy mà bố em rất cảnh giác không dám gửi qua bưu điện, hay gửi qua người quen đi nước ngoài, chỉ khi em về Việt Nam bố mới trao cho em và dặn là phải đưa tận tay cho cô, và cho cô rõ là phải khó khăn lắm mới lấy được tư liệu này... Bố em dặn cô đọc xong đừng phổ biến, không thì rách việc lắm cô nhé!' 



image
Hình minh họa
Trong phong thư là bản sao của tờ phúc trình tổn thất của sở tác chiến không quân Quân Đội Nhân Dân. Tờ phúc trình như sau:

image
Đại tướng Văn Tiến Dũng thăm đoàn không quân Sao Đỏ

'Thể theo chỉ thị số... Đại Tướng Văn Tiến Dũng đuợc lệnh từ Trung ương Binh chủng Không quân Nhân dân phải hạ quyết tâm khẩn trương làm chủ và tạo điều kiện hồi phục sử dụng sân bay Đà Nẵng để thành lập bộ phận trinh sát và phòng thủ mặt Nam đề phòng bọn Mỹ có thể quay trở lại can thiệp. Theo tinh thần trên. vào sáng ngày 30 tháng 3 lúc 5 giờ 15 sáng giờ Hà Nội một phi đội tiêm kích cơ hỗn hợp gồm 2 máy bay chủng loại Mig21 và một Mig 17. Phi đội mang bí số KK10 được lệnh cất cánh từ Đồng Hới để trinh sát sân bay Đà Nẵng xem xét khả năng bố trí phòng không và máy bay tiềm kích của quân đội ta sau này. Tiểu đoàn trinh sát TS5 báo cáo là căn cứ Đà Nẵng của quân đội Ngụy đã bị bỏ ngỏ hoàn toàn vào lúc 2 giờ sáng 30 tháng 3. Khi phi đội KK10 đã băng qua Xepon Lào và bắt đầu tiến vào Đà Nẵng từ hướng Tây Bắc, thì bất ngờ một tiềm kích cơ của Không Quân Ngụy chủng loại F-5E xuất phát từ Đà Nẵng bất thình lình tiến công.

image
Hình minh họa
Giặc lái Ngụy sau khi dùng hai tên lửa loại AIM-9B bắn hạ hai chiếc Mig-21 của ta, hắn còn ngoan cố đuổi theo dùng súng bắn hạ thêm một máy bay Mig-17 của ta. Các đồng chí lái của quân đội nhân dân đã kiên cường bất khuất chống trả suốt gần 7 phút. Các đồng chí lái, Lai Như Hạch, Hồ Mạc Dịch, Đỗ Mai Quốc đã hy sinh oanh liệt. Còn chiếc tiềm kích cơ địch đã bị tên lửa của ta bắn hạ. Tên giặc lái ngụy nhảy dù đã bị quân dân ta bắt được. Tên giặc lái ác ôn này tên là Nguyễn Bé Tư, cấp bậc Trung Úy số quân... Trung Ương đã ra lệnh giải quyết thích đáng tên giặc lái này cương quyết không để những thông tin xấu lọt ra ngoài về sự kiện ba máy bay của không quân nhân dân anh hùng bị một tiềm kích cơ địch bắn hạ trong vòng 7 phút. Bọn địch có thể lợi dụng để nói xấu KQND.

image
Hình minh họa
Đồng chí Thượng Tá Nguyễn Công Tâm chánh án, kiêm công tố viên tòa án nhân dân đã tuyên án tử hình tên giặc lái Nguyễn Bé Tư. Tên Trung Úy Ngụy Nguyễn Bé Tư đã đền tội vào ngày 5 tháng 4 1975.'
Trên góc trái của tờ phúc trình có hàng chữ TUYỆT MẬT - không bao giờ được công bố.

image
Hình minh họa
Mai bâng khuâng, nhưng cô không thấy buồn, cô cảm thấy rất hãnh diện và thanh thản như người lữ hành đã về lại nhà mình. Từ lâu cô đã chấp nhận là con người mang cái tên Nguyễn Bé Tư đã không còn có mặt trên cõi đời này nữa cô linh cảm là anh đã đền nợ nước một cách anh dũng, điều cô linh cảm bây giờ đã thành sự thật trên giấy trắng mực đen. Cô kiêu hãnh về anh Nguyễn Bé Tư, anh đã chết hào hùng như anh đã sống. Cô thương mến người phi công ấy chẳng phải vì anh hào hoa phong nhã như người ta thường nói về những người lính Không Quân VNCH. Cô thương anh vì anh mộc mạc, thứ mộc mạc của loại đá bọc kim cương.
Anh Nguyễn Bé Tư 'Ace' đầu tiên của KQ-QLVNCH một mình hạ 3 phi cơ địch trong vòng 7 phút, thế mà cuộc đời lại không có quyền biết đến anh. Bọn cộng sản run sợ và kính nể khi nhắc đến cái tên hiền hoà của anh, chúng sợ đến nỗi phải giết anh.

image
Đêm nay Mai thấy lòng mình thật ấm áp dường như có sự hiện diện của anh Nguyễn Bé Tư đâu đây, dường như anh đang nói với cô đừng buồn đừng giận anh. Xoay xoay chiếc nhẫn Không Quân quanh ngón tay, Mai khe khẻ gật đầu không nói nên lời như đêm cuối cùng năm xưa còn ngồi bên anh. Bên ngọn đèn Mai vuốt lại mái tóc đã điểm sương, thấy mình lại là cô giáo trẻ năm nào đang choàng hoa cho người phi công khu trục anh hùng của QLVNCH.




Thần Long

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013

LỰC LƯỢNG VŨ TRANG PHẢI TRUNG THÀNH VỚI TỔ QUỐC


LỰC LƯỢNG VŨ TRANG PHẢI TRUNG THÀNH VỚI TỔ QUỐC

* NGUYỄN TRỌNG VĨNH 
Cũng như một ông gì trước đây, mới rồi, để bảo vệ cho Điều 70 trong Dự thảo Hiến pháp sử đổi, ông Tô Lâm nói: “Đảng Cộng sản lập ra và rèn luyện các lược lượng vũ trang, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nói lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản, vậy Điều 70 ghi Lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam là đúng”. 
Vậy hãy thử đưa thực tế ra để xem ông Tô Lâm nói đúng hay sai:
Sau khi về nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lập ra Mặt trận “Việt Nam độc lập đồng minh” gọi tắt là “Việt Minh” và trong khu rừng Trần Hưng Đạo ở Cao Bằng, chính Người lập ra Đội Võ trang tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 người và giao cho đồng chí Văn (tức Võ Nguyên Giáp) chỉ huy, Người không nhân danh Đảng Cộng sản, Người cũng chưa lấy tên Hồ Chí Minh, nhân dân gọi Người là “ông Ké”.
Lúc ấy ít người nói đến Đảng Cộng sản Đông Dương, nhân dân thường chỉ biết “Việt Minh”, tán thành chương trình “Việt Minh”, theo “Việt Minh”, ra nhập tổ chức “Việt Minh”…
Sau Cách mạng Tháng 8, thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, có chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Trong cuộc đấu tranh với bọn “Việt Nam Cách mạng đồng minh hội” và bọn “Quốc dân đảng” theo Tàu dựa vào bọn tướng Tàu Lư Hán, Tiêu Văn định lật đổ chính phủ Hồ Chí Minh thì hàng ngày hàng chục vạn dân Hà Nội và các tỉnh xung quanh rầm rập biểu tình, hô vang “Ủng hộ Việt Minh”, “Ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh”, do đó mà giữ được chính quyền.
Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa phát triển từ 34 chiến sĩ “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” thành quân đội quốc gia để bảo vệ nước, bảo vệ chính quyền. Thời gian đầu gọi là Vệ quốc quân (chứ không gọi là Vệ Đảng quân), cho nên mới có bài hát: “Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi, chiến đấu vì nhân dân không hẹn ngày về…” Đội quân Nam tiến giúp đồng bào miền Nam đánh Pháp vẫn mang tên “Vệ quốc quân”. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói Trung với nước, hiếu với dân nên trên báo chí và trong các văn kiện sau này ghi “Quân đội ta từ nhân dân mà ra, trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Tháng Giêng năm 1946, vì sách lược, Bác Hồ đã tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản (thực tế là rút vào bí mật). Như vậy, trên công khai với dân và với quốc tế là không có Đảng Cộng sản, thế thì làm gì có chuyện Hồ Chủ tịch khi nói chuyện công khai với lớp học sĩ quan, Người lại nói Quân đội phải trung với Đảng Cộng sản? Tôi đọc Tuyển tập Hồ Chí Minh xuất bản lần thứ nhất không thấy trang nào ghi Hồ Chủ tịch nói câu ấy. Trong Tuyển tập xuất bản lần thứ 2 năm 2000 có thể người ta đã sửa thế nào đó.
Nói Đảng lãnh đạo các lực lượng vũ trang thì đúng. Đảng lãnh đạo toàn dân chứ không riêng gì đối với lực lượng vũ trang. Đảng lãnh đạo, nhưng lực lượng vũ trang vẫn là của nước, trong đó có Đảng, lực lượng vũ trang bảo vệ được nước thì cũng bảo vệ được cả Đảng, việc gì Đảng phải giành lấy cho riêng mình, “bắt phải trung thành tuyệt đối với Đảng”? Đảng lãnh đạo là nói chung, nhưng phải có binh sĩ là con em nhân dân hết lòng yêu nước, hăng hái chiến đấu, có những tướng lĩnh trí dũng và vị Tổng tư lệnh đức độ, tài ba kiệt xuất trực tiếp rèn luyện và chỉ huy thì mới chiến thắng.
Ông Tô Lâm còn lý luận bừa rằng “Ở các nước có nhiều Đảng thì Đảng nào cầm quyền quân đội phải theo Đảng ấy”. Không đúng! Hãy lấy nước Mỹ và nước Pháp làm ví dụ:

Ở Mỹ, dù người của Đảng Cộng hòa hay Đảng Dân chủ trúng cử Tổng thống, thì quân đội vẫn là quân đội của nước Mỹ, không phải của Đảng nào. Tổng thống được dân bầu ra là người của dân, Tổng thống của dân, của nước Mỹ, nắm quyền điều khiển quân đội nhân danh nước Mỹ không nhân danh Đảng Cộng hòa hay Đảng Dân chủ. Không phải khi ông Bush làm Tổng thống thì quân đội theo Đảng Cộng hòa, khi ông Obama làm Tổng thống thì quân đội theo Đảng Dân chủ, ở Mỹ còn tùy thuộc Quốc hội nữa.
Ở Pháp cũng vậy, người của Đảng nào nắm quyền thì quân đội vẫn là quân đội của nước Pháp. Bất cứ ứng cử viên của Đảng nào được đa số cử tri bầu làm Tổng thống, có nghĩa là nhân dân Pháp giao cho thay mặt nhân dân điều hành công việc của nước Pháp cũng như điều khiển quân đội. Quân đội tuân theo mệnh lệnh của Tổng thống là tuân theo người thay mặt cho nhân dân Pháp và nhà nước Pháp, trung thành với nước Pháp, chứ không phải khi ông Sarkozy làm Tổng thống thì quân đội theo Đảng UMP, hoặc ông Hollande làm Tổng thống thì quân đội Pháp theo và trung thành với Đảng Xã hội.
Suốt từ năm 1946, mọi lời nói, mọi việc làm của Bác Hồ đều là Trung với nước, hiếu với dân, từ cái ca tráng men uống nước phát cho bộ đội cũng in chứ Trung với nước, hiếu với dân. Lá cờ nhỏ mà Bác Hồ tặng cho trường Võ bị lục quân Trần Quốc Tuấn khi Bác đến thăm cũng ghi Trung với nước, hiếu với dân. Trong bức thư Người gửi cho thanh niên ngày 2/9/1965 dòng thứ 20 Người cũng dặn: “Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng, trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Trong Hiến pháp 1980, tại Chương IV Điều 51 ghi “Các lực lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân…”.
Trong Hiến pháp 1992, tại Chương IV Điều 45 vẫn còn ghi “Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân…”.
Nay dư thảo sử đổi Hiến pháp lại thêm điều 70 ghi “Các lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản…”, gạt Tổ quốc ra một bên hay đứng trên Tổ quốc, như vậy là có động cơ gì, ý đồ gì?
Lại nói về Đảng lãnh đạo
Từ thành công trong cuộc Cách mạng Tháng 8, thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cho đến cuộc chiến đẩy lùi 60 vạn quân Trung Quốc xâm lược, không ai có thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản. Không những không phủ nhận mà nhân dân rất tôn trọng và tự giác tuân theo theo sự lãnh đạo của Đảng mà chả cần có “Điều 4 Điều 3 nào”. Vì sao được như vậy? Vì mục đích duy nhất của Đảng là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Đảng không có lợi ích riêng tư nào khác. Tổ chức Đảng trong sạch, có Đảng viên hư hỏng chỉ là số rất rất ít. Đảng có phạm sai lầm thì công khai kiểm điển trước dân, xin lỗi dân, thành tâm tích cực sửa chữa, người phụ trách chính từ chức.
Nếu bây giờ Đảng kiên quyết loại trừ hết những Đảng viên thoái hóa biến chất ra khỏi Đảng, khôi phục tính chất cộng sản chân chính của Đảng, kiên quyết bài trừ tham nhũng, xóa bỏ lợi ích nhóm, thực hiện dân chủ, trở lại gắn bó với dân, trọng dụng nhân tài thứ thiệt, phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, hết lòng phục vụ đất nước thì nhân dân lại tôn phục, tự nguyện theo sự lãnh đạo của Đảng, chả cần đến Điều 4.
Nếu không thay đổi, tham nhũng cứ phát triển, nhiều đảng viên thoái hóa biến chất hư hỏng về đạo đức lối sống, vẫn nắm các chức quyền, Đảng suy thoái, kinh tế quốc doanh thua lỗ, thất thoát lớn tiền của của nhà nước, kinh tế sa sút nghiên trọng dẫn đến nước nghèo, dân khổ thì dù cứ khăng khăng áp đặt “Điều 4” “Hiến hóa” quyền của Đảng, Đảng vẫn mất lòng tin của dân.
Lại còn tình trạng chuyên quyền độc đoán, nhiều cấm, nhiều tăng, đối với những người có ý kiến quan điểm khác với lãnh đạo, phản biện những chủ trương chính sách sai, đề nghị những ý kiến thành tâm xây dựng… thì chụp cho là suy thoái, phản động, chống Đảng, chống nhà nước, bị địch kích động, mua chuộc…, dân oan đi khiếu kiện cũng coi là chống đối, gây mất trật tự, phải xử lý.
Hành xử như trên chỉ gây bất bình, phẫn uất trong nhân dân, dồn đẩy người ta đến chân tường thì tình hình sẽ thế nào??

Ngày 243/2013
(Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh 
gửi đến Đại tá Bùi Văn Bồng)

Không được lên án, thóa mạ các ý kiến trái chiều


Không được lên án, thóa mạ các ý kiến trái chiều

Hồ Đức Yên

(Tường thuật góp ý Hiến pháp của CLB Truyền thống kháng chiến – Khối Thanh niên, TP HCM)
Ngày 6.3, tại Bảo tàng cách mạng TP.HCM, Khối Thanh niên thuộc Câu lạc bộ Truyền thống kháng chiến đã tổ chức góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Trong phần chương trình, hội nghị đã nghe ông Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội giới thiệu tóm tắt Kiến nghị 7 điểmcủa Nhóm 72 trí thức: Quyền lập hiến phải thuộc về toàn dân, không thể thuộc về bất kỳ một tổ chức hay cơ quan nào; Lời nói đầu không phải là chỗ để tuyên dương công trạng của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào; sửa Dự thảo theo đúng tinh thần của Tuyên ngôn về Quyền Con người năm 1948 và các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia; sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng về đất đai cùng tồn tại với sở hữu nhà nước; các cơ quan nhà nước phải tuân thủ Hiến pháp và luật; thành lập Tòa án Hiến pháp với chức năng phán quyết; lực lượng vũ trang trung thành với Tổ quốc và nhân dân, không trung thành với bất kỳ tổ chức nào (yêu cầu bỏ quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam); phải có trưng cầu dân ý để phúc quyết Hiến pháp; và cuối cùng là gia hạn thời gian lấy ý kiến của nhân dân đến hết năm 2013. 
Đường lối của Đảng phải minh bạch
Nếu mở đầu cho chương trình là bản góp ý của ông Nguyễn Văn Thuyền, nguyên Thường vụ Thành ủy, Chủ nhiệm CLB Kháng chiến TP.HCM, (do tuổi cao không tham dự, được đọc lại tại hội nghị) với tinh thần chủ yếu là sự cần thiết của điều 4 trong Hiến pháp, cùng câu hỏi gay gắt “ai là kẻ mưu toan dẹp bỏ điều 4”, thì ngay sau đó là các ý kiến đầy tâm huyết thể hiện xu hướng ngược lại.
Đặt vấn đề nên hay không nên có điều 4, luật sư Nguyễn Đăng Liêm, nguyên Hiệu trưởng Đại học Gia Định cho rằng: Hiến pháp không thể tự định trước cái quyền Đảng Cộng sản “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” được. Hiến pháp “khẳng định ý chí của nhân dân” thì trước hết Đảng phải được nhân dân trao quyền lãnh đạo. Nhưng vấn đề là nhân dân có trao quyền đó hay không? Trong khí hoạt động của Đảng thời gian qua không đảm bảo công khai, minh bạch; nhiều đường lối, chính sách và thực hiện chính sách không của dân, vì dân đã dẫn đến sai lầm, yếu kém, tiêu cực và đặc biệt là tham nhũng trầm trọng.
Tình trạng đó có nguyên nhân là người dân không được thực sự làm chủ, hoặc hơn thế là quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm. Vì vậy, Điều 6 viết: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” là không thể. Bởi Quốc hội, Hội đồng nhân dân cũng chỉ là “cánh tay nối dài của Đảng”. Đó là chưa kể nhiều những văn bản dưới luật được thực thi đã vi phạm Hiến pháp. Với tổ chức để người dân “thực hiện quyền dân chủ trực tiếp đại diện” như thế thì làm sao “giám sát” được Đảng và lấy gì để “buộc” Đảng phải “chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”? (Điều 4, Khoản 2).
85 triệu dân đang ngồi trên con tàu lao dốc không phanh
Tán thành với quan điểm của ông Nguyễn Đăng Liêm, ông Lê Công Giàu, nguyên Phó bí thư Thành đoàn TP.HCM, đã đưa ra một lập luận đầy tính nhân văn. Theo ông, những tổ chức là “cánh tay nối dài của Đảng” thì không thể phản biện được Đảng. Trước đây, Bác Hồ đã đề ra hai Đảng Xã hội và Dân chủ; tất nhiên là hai đảng này không cạnh tranh nổi với Đảng Cộng sản, nhưng ít nhất cũng là tổ chức phản biện trong Quốc hội đối với đường lối của Đảng Cộng sản. Hiện về danh nghĩa chúng ta có hệ thống kiểm soát quyền lực, nhưng trên thực tế hệ thống kiểm soát này không thể kiểm soát được. Có thể ví đây là một cái thắng (phanh) lúc ăn lúc không, thậm chí có lúc chạy tuột luôn. Thử hỏi, các đồng chí ngồi trên xe máy không có thắng, liệu có dám chạy không? Vậy mà hiện nay con tàu ViệtNamvới tám mươi sáu triệu dân phải ngồi trên một hệ thống thắng không ăn, đang tuột dốc với tốc độ cao, cực kỳ nguy hiểm. Thắng không ăn đồng nghĩa với hệ thống kiểm soát quyền lực bị vô hiệu, đã dẫn đến hư hỏng không thể sửa được. Hãy thử nhìn ra các nước, chỉ với 30 năm họ đã là một nước công nghiệp hóa, dân chủ, tự do. Còn Việt Nam ta kể từ khi có Đảng đã hơn 80 năm, có chính quyền gần 70 năm và giải phóng cũng gần 40 năm mà vẫn lạc hậu. Điều đó có nghĩa là đường lối của Đảng không còn phù hợp nữa, phải thay đổi.
“Nói Đảng nhưng thực chất là các vị trong Bộ Chính trị và một trăm bảy mươi mấy vị ủy viên Trung ương lãnh đạo đất nước và quyết định thể chế chính trị. Vậy bây giờ mấy vị này phải đề ra giải pháp đường lối đưa đất nước đi lên. Nếu không được là có tội với dân tộc. Nếu không được thì phải chấp nhận đa đảng”. Ông Lê Công Giàu nói.
 “Phải dứt khoát bỏ tất cả các cụm từ xã hội chủ nghĩa”
Đó là một trong hai quan điểm khẳng định “dứt khoát” của ông Hồ Hiếu, nguyên cựu tù Côn Đảo, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Mặt trận, TP.HCM. Thứ nhất, tên nước không thể kèm theo ý thích của một số người theo chủ nghĩa này, không theo chủ nghĩa kia; hay là theo cái đạo này, bỏ cái đạo khác. Đó là chưa kể xã hội chủ nghĩa là chưa có thật, rất xa với và không biết bao giờ sẽ có. Đặt tên nước là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa là người cộng sản đã lạm quyền. Đề nghị lấy lại tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cái tên do Bác Hồ khai sinh. 
Tên gọi “xã hội chủ nghĩa” như cái vòng kim cô. Vì cái vòng kim cô xã hội chủ nghĩa duy ý chí này nên nhà đất sai không sửa, giáo dục kém không sửa; rồi kéo theo hàng loạt chính sách không hoàn chỉnh mang tên xã hội chủ nghĩa: pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, y tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế… đã thị trường lại còn định hướng xã hội chủ nghĩa… Cái chữ “xã hội chủ nghĩa” đó chia rẽ dân tộc trong nước và nước ngoài, chia rẽ cộng đồng thế giới. Thứ hai, theo, ông Hồ Hiếu là “dứt khoát phải xóa hẳn đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Toàn dân là ai? Ai tên là “toàn dân”. Nhà nước quản lý mà trên là Đảng lãnh đạo thì đất đai là của Đảng, của Nhà nước mất rồi. Nhà nước quản lý nghĩa là muốn thu hồi là thu hồi, muốn cưỡng đoạt, định giá là cưỡng đoạt, định giá. Và như vậy thì vẫn xảy ra tình trạng như thời gian vừa qua, chính sách về ruộng đất và thực thi chính sách này không minh bạch, dẫn đến khiếu kiện đất đai kéo dài không dứt…
Đảng nên bình tĩnh và xem lại mình
Ông Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng phản ánh một thực trạng bức xúc, đó là tình hình đất nước đang rất khó khăn với bao âu lo, nhưng Đảng và dân mỗi người lo một cách khác nhau. Đảng lo giữ gìn thể chế, sự tồn vong của chế độ; dân lo đời sống khó khăn, kinh tế sa sút, tham nhũng trầm trọng… Dân và Đảng không gặp nhau, không còn đâu là ý Đảng, lòng dân. Ông Ngãi đề xuất: “Hiện, đang có góp ý Hiến pháp của 72 trí thức (gọi tắt là Kiến nghị 72 – đã có hơn 9.000 người ký tên) với Kiến nghị 7 điểm đúng đắn. Vì vậy, Đảng nên gặp gỡ để bàn bạc trao đổi, sửa Hiến pháp theo tinh thần của các kiến nghị nêu trên nhằm phát huy dân chủ và hoà hợp dân tộc là những đòi hỏi hết sức bức xúc của nhân dân trong giai đoạn trước mắt, cũng như cho sự phát triển bền vững lâu dài của đất nước”.
Từ ý nghĩa này, ông Võ Văn Thôn, nguyên Chủ tịch UBND  Q3, Giám đốc Sở Tư pháp đề xuất, góp ý Hiến pháp là việc hệ trọng, Đảng nên hết sự bình tĩnh, lắng nghe. Đã có chủ trương đúng đắn “góp ý không có vùng cấm”, vậy đề nghị Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội, cũng như báo chí, đài truyền hình của Đảng không nên lên án, đả kích những góp ý trái chiều.
Hội nghị cũng thu được nhiều ý kiến sắc bén qua các nội dung: Công chức nhà nước ở các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp… đều ăn lương do dân đóng góp. Bộ máy Nhà nước của dân phải phục vụ nhân dân, đương nhiên phải phi chính trị hóa, kể cả công an, quân đội. Phải có tòa án bảo vệ Hiến pháp, ngay đến Hiến pháp 92 cũng có những cái hay, cái đúng nhưng thường bị các nghị định, nghị quyết sai vô hiệu hoặc đi ngược lại với Hiến pháp. Lập hiến (xây dựng, ban hành hay sửa đổi hiến pháp) là quyền của nhân dân, nhưng với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 này thì vẫn là do Đảng lập, Đảng soạn. Vì vậy phải viết lại Hiến pháp…
Hội nghị sôi nổi trong suốt bốn tiếng đồng hồ. Ngay cả bên lề, cũng có những ý kiến xác đáng, ấy là: Góp ý hiến pháp không được báo đài phản ánh trung thực. Một buổi như hôm nay chẳng hạn, chỉ có hai ý kiến đồng ý điều 4, chín ý kiến đề nghị bỏ điều 4, nhưng lại sẽ tường thuật “Hầu hết ý kiến khẳng định cần có điều 4 trong Hiến pháp”! 
H. Đ. Y.

Ở với Ai?

Ở với Ai?

Hai vợ chồng già, khi một người ra đi thì người còn lại nên ở với ai? Với con trai hay ở với con gái hay là ở một mình, hay là đi tìm một mình mới để cho có người bầu bạn? Những vấn nạn này, chẳng phải đợi đến khi một anh khoác áo chinh nhân lên đường cứu quốc, lúc đó mới đặt ra câu hỏi thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây, mà chúng đã được đặt ra từ khi các khỉ con đã có vợ có chồng, có gia đình riêng, ra ở riêng tất cả, trong nhà chỉ còn lại hai con khỉ già ngồi nhìn nhau hết ngày này qua ngày khác. Ngày xưa ở Việt Nam, chẳng làm gì có những chuyện này mà cần phải đặt thành vấn đề. Vì theo tập tục, cha mẹ già là ở với con trai lớn. Trẻ cậy cha già cậy con là lý trí đương nhiên. Chẳng có gì cần bàn cãi. Nhưng ngày nay, đây lại là cả một vấn đề lớn.

Tôi còn nhớ, những năm sau đây, nhóm bạn già chúng tôi đã có lập trường vững chắc, đã viết ra một bản nội qui cho hội, và tất cả đều nhất trí - kiểu Việt Cộng - 100% là khi các con cái ra riêng, thì hai vợ chồng già ở mí nhau là hạnh phúc nhất đời. Đó là một sự tự do tìm lại được sau những ngày tháng miên man lo làm bổn phận mà quên mất hạnh phúc riêng tư. Cứ cho như lúc này là một cuộc hôn nhân mới, một tự do son rỗi mới, một tuần trăng mật triền miên. Cần phải biết tận hưởng bằng cách cùng nhau tổ chức những tuần trăng mật thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ vân vân và vân vân cho tới khi nào sụm bà chè không đi được nữa thì sẽ tính. Khi nào một anh bỏ cuộc chơi, lên đường vinh quang thì anh kia sẽ tùy trường hợp, tùy hoàn cảnh mà lo liệu lấy thân. Nhưng tất cả đều đồng thanh, không nên ở với con, cho dù là con trai hay con gái, cho dù là con mình sinh ra toàn là những gương mẫu nhị thập tứ hiếu không à. Cũng không nên ở chung, mất tự do của mình mà lại ảnh hưởng tới hạnh phúc của con. Đấy là chưa kể, trường hợp mình vô phúc, chẳng may, vụng về, khê nát, đẻ ra toàn là hột vịt ung, hột gà thối, thì đừng bao giờ nghĩ chuyện ở chung cho nó thêm phiền não.

Trong đầu óc chúng tôi - những hội viên của hội lão này - cụ nào cũng có một vài ba cái kinh nghiệm của bà con, của bạn bè về những vụ ở chung với con cái. Chuyện nào cũng chẳng có happy ending gì hết, mà đều là bẽ bàng, dại dột. Bố hay mẹ góa, nghe lời ngon ngọt của con - trai hay gái - bán nhà, đem tiền về gửi con, rồi ở với con với cháu cho chúng nó có thì giờ trả hiếu. Nhưng chỉ chừng vài ba tháng trăng mật, khi chúng rút hết tiền trong két nhỏ cũng như công lớn, chúng bèn nhắc nhở, khách ở trong nhà giống y hệt như cá như tôm, chỉ đến ngày thứ ba là ươn, là thối sình lên rồi. Thế là ông bà già tức tưởi, khăn gói quả mướp ra đi với hai bàn tay trắng theo đúng nghĩa đen cũng như nghĩa trắng. Hỏi đến tiền chúng cứ tảng lờ như không hiểu bố mẹ nói gì. Cụ nào cũng tắc lưỡi nói, vẫn biết đây là chuyện hàng xóm, con mình chả đến nỗi thế, nhưng nó ở nhà mình thì mình là chủ những nó vẫn coi là nhà của nó, nhưng mình ở nhà nó là không được, vì nhà nó là nhà nó, không phải là nhà mình, nó là chủ mà mình là người ở nhờ.


Có cụ thành thật chia sẻ. Ở nhà nó thì khi mình còn sức khỏe, làm vú em, làm chị sen, chị bếp cho chúng được thì vui, nhưng mà trông cháu coi vậy mà không phải vậy, mệt cầm canh. Nhất là khi mỗi đứa một loại tuổi, đứa thì bú sữa, thay tã, đứa thì thoáng một cái là chạy mất tiêu mất hút, chẳng biết đâu mà tìm, đứa đi đá banh, đứa đi học võ. Ông hàng ngày đưa đi, đón về, lái xe còn nhiều hơn cả tài xế taxi. Cụ nào như cụ ấy, ai cũng nghĩ không nên và không thể ở được với con. Thế mà lâu lâu vẫn có cụ bị mắc lỡm, bị vào tròng. Đã bảo là miệng thì khôn, nhưng đôi khi hành động lại không khôn. Cho nên, lâu lâu vẫn có cụ bị con lừa, ngậm một mối căm hờn trong nhà dưỡng lão. Và đề tài câu chuyện của các cụ trong nhà dưỡng lão luôn luôn vẫn là những chuyện nhị thập tứ bất hiếu thời nay.

Nhưng mà, cụ cũng đừng coi những chuyện trên đây là thông lệ hay ngoại lệ, chỉ biết rằng lâu lâu lại có một chuyện như thế. Cụ nào không may thì gặp phải loại con Lý Tường, chứ không phải đứa con nào cũng là Lý Tường cả. Thôi thì cứ cho là, kiếp trước mình nợ nó, bây giờ nó trở vào làm con mình để nó đòi nợ. Chứ thực ra thì, con tôi đâu có thế, mà con cụ cũng đâu có vậy. Tuy nhiên, dù sao thì cũng chẳng nên lợi dụng lòng tử tế của nó. Cứ ở một mình là yên chuyện. Trừ khi nào không thể ở được một mình nữa thì hãy tính. Nếu trời bắt u mê chẳng còn biết ai vào với ai, thì ở đâu mà chả giống nhau, ở nhà nó hay ở nhà mình, mà cho dù có ở trong viện dưỡng lão, thối tha, bẩn thỉu thì cũng có biết gì nữa đâu mà chịu mí lị không chịu!


Tôi luôn luôn lấy làm mãn nguyện, luôn miệng cám ơn Trời, đã thương tôi cho tôi những đứa con - chả được như nhị thập tứ hiếu, nhưng cũng không đến nỗi thuộc loại nhị thập tứ bất hiếu – chúng là những đứa con có tình, biết điều, có giáo dục, nói tóm lại là có hiếu. Nhiều cụ nghe tôi khoe con, có vẻ lấy làm cay cú, hỏi mát tôi rằng, con cụ hiếu thảo thế, nhà cửa chúng lại đầy đủ tiện nghi, sao cụ không dọn về ở với một đứa, có phải vừa ấm cúng lại vừa đỡ tốn tiền thuê nhà không? Câu hỏi rất có lý, nhưng mà tôi cũng đã suy đi tính lại nát ra rồi cụ ạ. Tôi thấy cái lý luận con ở với bố mẹ thì bố mẹ vẫn là chủ, nó là con, còn bố mẹ ở chung với con thì nó là chủ mà mình là người ở nhờ. Đúng không thể chê vào đâu được. Ở với con không được vì con tôi đứa thì có gia đình cả 35 năm nay, thằng út cũng lấy vợ năm nay là 20 năm rồi. Đứa nào cũng có một nếp sống riêng tư của chúng, tôi cũng có những thói quen của tôi. Chẳng ai có thể bỏ nếp sống quen thuộc của mình mà hòa nhập vào một nếp sống khác. Cho nên, nếu tôi muốn thoải mái, cứ sống một mình là khỏe. Được cái Trời thương, tôi thường làm bạn với những người chết, đã quen rồi. Khi mẹ tôi mất, tôi thấy mẹ tôi vẫn còn sống và sinh hoạt trong nhà tôi cả đến 3, 4 năm sau mới không thấy cụ đi ra đi vào nữa. Ngày nay ông Xã Xệ, tôi để tro của ông ở nhà, cho nên tôi cảm thấy như ông vẫn còn đấy. Lạ một cái tôi không mơ thấy ông và cũng không nhìn thấy ông, nhưng tôi vẫn cảm thấy sự hiện diện của ông ở trong nhà, và nghe thấy tiếng ông gọi tôi.
Cũng nhờ tôi không sợ ma, cho nên tôi sống với hình ảnh của ông, cùng với hộp tro của ông cũng không thấy sợ, mà còn cảm thấy ấm cúng. Tôi không cảm thấy là tôi đang sống một mình, mà vẫn sống hai mình như thường.
Cho nên câu hỏi ở mí ai không áp dụng cho tôi!

 Ba Ba Phải

Thư ngỏ gửi Đại biểu Quốc hội khóa XIII


Thư ngỏ gửi Đại biểu Quốc hội khóa XIII

TP Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 3 năm 2013
Kính gửi Ông (Bà): Đại biểu Quốc hội khóa 13
Đầu thư, tôi xin chân thành gửi đến Qúi vị lời chúc sức khỏe và hạnh phúc.
Xin tự giới thiệu tôi tên Nguyễn Hữu Hoàn, năm nay 49 tuổi. Năm 1982 đạt Huy chương Đồng Olympich Toán Quốc tế tại Hunggary, được đi học và tốt nghiệp Trường Đại học Tổng hợp Bêlaruss (Liên Xô cũ) năm 1988. Từ năm 1989 đã qua công tác tại Phân viện Khoa học Việt Nam tại TP HCM, Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam, Trường Đại học Dân lập Văn Lang, Trường Đại học Dân lập Kỹ thuật Công nghệ, Trường Cao đẳng Kỹ thuật Vinhempich. Hiện nay là giáo viên tự do, sống cùng vợ và 2 con tại Quận 5 TP HCM, không có tiền án và tiền sự.
Sở dĩ tôi giới thiệu như vậy để Quí vị công nhận rằng tôi là một công dân có đủ năng lực về trí tuệ, không có hận thù với chế độ và không phải là người suy thoái đạo đức, tác phong và lối sống.
Tôi viết thư này đến Qúi vị trên tinh thần là trao đổi ý kiến của một công dân bình thường với một công dân đã được nhân dân tin tưởng giao trách nhiệm trong cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Tôi chắc rằng sẽ có những lời lẽ rông dài, động chạm làm cho Quí vị không được vui. Mong Quí vị bỏ qua trước và hết sức thông cảm cho tôi vì “trung ngôn nghịch nhĩ” mà.
Vấn đề tôi muốn trao đổi là Điều 4 trong Dự thảo Hiến pháp mới: thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội.
Chắc Quí vị cũng đã biết có nhiều ý kiến trái ngược nhau về Điều 4 này. Một bên đại diện cho quyền lợi của Đảng CS thì phải giữ được điều này trong Hiến pháp, một bên là những người muốn một xã hội dân chủ thực sự thì cho là nên bỏ điều này đi.
Tôi biết rõ rằng tuyệt đại đa số Đại biểu Quốc hội là Đảng viên Đảng CS, và không loại trừ khả năng trước khi Quốc hội đưa ra thảo luận sửa đổi Hiến pháp, sẽ có một chỉ thị của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương cho từng Đảng viên Đại biểu Quốc hội là không được thảo luận mà phải thông qua ngay Điều 4 này.
Vì vậy, tôi xin Quí vị nếu là Đảng viên hãy tạm quên mình là Đảng viên trong phút chốc và suy nghĩ với tư cách là đại diện cho 80 triệu người dân của đất nước này.
Câu hỏi 1:

Đảng CS có phải là đại biểu trung thành cho lợi ích của Nhân dân Việt Nam không?
Từ năm 1930 đến năm 1975, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, đó là công lao của Đảng không ai phủ nhận. Nhưng xin Đảng cũng đừng quên ngoài sự lãnh đạo của mình còn có sự hy sinh của hàng triệu đồng bào và chiến sĩ trên cả nước.
Trong thời kỳ này, Đảng cũng có những sai lầm trầm trọng, cụ thể là thời kỳ cải cách ruộng đất đã tước đi sinh mạng của hàng vạn người vô tội và cướp đoạt tài sản của nhiều người dân làm ăn lương thiện.
Từ năm 1975, học theo đường lối của Liên Xô, Đảng đã đưa nền kinh tế theo con đường tập thể hóa, kết quả là kinh tế không phát triển được, người dân lao động bị bần cùng hóa. Nhận thức được điều đó, tại Đại hội 6,  Đảng đã phải chấp nhận từ bỏ chế độ tập trung bao cấp, công nhận nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường trong sản xuất kinh doanh. Như vậy đây là bước sửa sai của Đảng, vì nền kinh tế thị trường là một quy luật khách quan mà cơ chế bao cấp là cái phanh (thắng) cản trở. Tuy nhiên trong khi nền kinh tế đang phát triển theo quy luật vốn có của nó thì Đảng lại cho là đấy là công lao của mình. Cũng như một cái xe đã nổ máy và vào số rồi mà người lái cứ đạp mạnh thắng cho nên không thể chạy được. Sau khi nhả thắng ra thấy xe chạy thì anh ta la lớn lên: ”Cái thắng là động lực làm cho cái xe chạy”. Thật là trơ trẽn và xấu hổ.
Tuy nhiên, bước sửa sai từ đó đến nay của Đảng là chưa triệt để. Tư tưởng lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo đã bộc lộ những thiếu sót trầm trọng. Nhân dân được hưởng lợi gì khi các Tổng Công ty, Tập đoàn Nhà nước làm ăn kém hiệu quả, gây thua lỗ làm Nhà nước phải bỏ tiền thuế của dân ra khắc phục?
Nguyên nhân chính của việc kinh tế quốc doanh kém hiệu quả là do sự thiếu trách nhiệm và năng lực quản lý tồi của các cán bộ chủ chốt. Họ là những người được Đảng giao trọng trách nhưng lơ là vì “cha chung không ai khóc” và khi có cơ hội là tham ô, tham nhũng tràn lan làm mất lòng tin của nhân dân.
Để nền kinh tế phát triển, phải nhanh chóng cổ phần hóa các Doanh nghiệp Nhà nước để quyền quyết định vận mệnh doanh nghiệp thuộc về người lao động và nhân dân, những người chủ thực sự của Doanh nghiệp.
Trên mặt trận văn hóa tư tưởng, sai lầm chết người của Đảng là trù dập những người bất đồng chính kiến. Biết bao những người có tư tưởng đổi mới bị chụp mũ là suy thoái đạo đức, bị kết tội và cầm tù… Cả một bộ máy thông tin khổng lồ chỉ đưa tin một chiều để bảo vệ quyền lợi của Đảng. Những tiếng nói phản biện không được thông tin rộng rãi.
Câu hỏi 2:
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nhằm mục đích gì?

Điều lệ Đảng quy định đảng viên phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên lợi ích của mình. Nhưng đa số đảng viên có quyền chức hiện nay có làm như vậy không? Xin thưa rằng không. Họ lo vun vén cho lợi ích bản thân và gia đình, chọn người nhà của mình vào những vị trí then chốt trong bộ máy Nhà nước…Như vậy, một khi còn Đảng lãnh đạo thì quyền lợi của đảng viên cũng được đảm bảo. Đây là điều hay nhất trong tiêu chí “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” đấy.
Câu hỏi 3:

Nếu Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành không có nữa thì hậu quả sẽ như thế nào?

1. Lãnh đạo đất nước sẽ là những người do nhân dân sáng suốt lựa chọn. Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng chính phủ… không cần là người của Bộ Chính trị mà là những người thực sự có trách nhiệm với nhân dân.
2. Không có Đảng lũng đoạn nên tham nhũng sẽ khó có đất phát triển. Nguồn lực của nhân dân là ngân sách Nhà nước sẽ được huy động tối đa để phát triển đất nước.
3. Những kẻ cơ hội, không có năng lực thực sự đã chui vào Đảng thì không còn đất để kiếm ăn.
Trên đây là một số câu hỏi và suy nghĩ cảm tưởng của cá nhân tôi chia sẻ cùng Quí vị. Nếu đây là những ý kiến có mảy may trọng lượng nào đấy thì xin Qúi vị tham khảo thêm tại:
Nguyện vọng tha thiết của tôi là Quí vị hãy cân nhắc, đưa ra thảo luận công khai trên diễn đàn Quốc hội những vấn đề trên và hãy thêm một lá phiếu “không thuận” cho điều 4 của Hiến pháp.
Xin cám ơn Quí vị đã đọc thư và nếu có chút đồng cảm hãy thông tin cho tôi theo địa chỉ:
Nguyễn Hữu Hoàn
322/15 An Dương Vương P 4 Q 5 TP Hồ Chí Minh
ĐT: 08 3832 5992
DĐ: 012 8359 2229
Kính thư
Nguyễn Hữu Hoàn


Hình ảnh thần kỳ !


Hình ảnh thần kỳ ! Đây là kết quả tìm thấy của một nghiên cứu về ngoại cảnh ảnh hưởng bộ ốc con người như thế nào của đai học Yale
- Khi nhìn hình cô gái bên trái rồi nhìn hình ở giữa sẽ thấy cố gái ở giữa quay theo thuận kim đồng hồ
- Khi nhìn hình cô gái bên phải rồi nhìn hình ở giữa lại thấy cô gái ở giữa quay theo ngược kim đồng hồ

Bỏ đi hoặc Lên tiếng


Bỏ đi hoặc Lên tiếng




Ngô Nhân Dụng
Thí dụ chúng ta đến ăn ở một cửa hàng mà thấy thức ăn thì dở, nhân viên thì không thèm nghe khách nói, và ruồi nhặng tùm lum, quý vị sẽ làm gì? Nhiều khi phải cố nuốt cho xong bữa. Nhưng bình thường thì người ta sẽ quyết định, hoặc từ nay cạch đến già không đến đây ăn nữa, hoặc mời chủ tiệm ra, lên tiếng than phiền hay là phản đối.
Nhà kinh tế Albert Hirschman, mới qua đời cuối năm 2012, đã viết một cuốn sách bàn về các “phản ứng” của người tiêu thụ, với nhan đề là: “Exit, Voice and Loyalty” (Bỏ đi, Lên tiếng và Thủy chung); với tựa nhỏ: “Responses to Decline in Firms, Organizations, and States” (Phản ứng trước sự Suy đồi của các Xí nghiệp, Tổ chức, và Quốc gia).
Cuốn sách in năm 1970, đến năm 1989 bỗng được nhắc nhở lại trong thế giới chính trị học. Vì nhiều người thấy hiện tượng “Bỏ đi hoặc Lên tiếng” cũng diễn ra ở Ðông Ðức. Mô hình của Hirschman có thể giải thích sự sụp đổ của chế độ cộng sản tại Cộng Hòa Dân Chủ Ðức.
Trong cuốn sách trên, Hirschman trình bày hai cách phản ứng của con người khi bất bình với một xí nghiệp cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ không xứng đáng, hay với một tổ chức và quốc gia không đáp ứng những ước vọng của tham dự. Thứ nhất là chỉ “bỏ đi” mà không cần nghĩ tới nó nữa; người tiêu thụ đi mua hàng nhãn hiệu khác; dân một nước đi di cư. Thứ nhì là “lên tiếng” ở ngay trong tổ chức để mong nó thay đổi; hoặc đề nghị chính quyền thực hiện các chính sách đúng lòng dân. Những người muốn thủy chung thường không nghiêng về giải pháp bỏ đi, họ ở lại và cố gắng cải thiện.
Hirschman nhận xét hành động bỏ đi thường là quyết định có tính chất cá nhân; còn việc lên tiếng thường có tính tập thể, vì công ích hơn là tư lợi. Ông phân tích tác động của hành động bỏ đi trên khuynh hướng lên tiếng, và ngược lại. Khi biết có thể đi ăn ở tiệm phở khác được thì khách hàng chẳng cần phải lên tiếng chê hàng phở nấu dở. Cũng vậy, khi người dân một nước có thể di cư sang nước khác dễ dàng thì họ cũng không quan tâm đến việc đòi hỏi chính quyền phải đưa ra những chính sách hợp ý dân hơn. Cả hai lựa chọn đều thể hiện khát vọng tự do, cho nên các chế độ phủ nhận quyền tự do của dân có thể nới rộng hoặc thắt chặt hai chính sách cùng một lúc; và việc thả lỏng trong phạm vi này có thể kích động nhu cầu đòi phải nới rộng trong phạm vi khác. Cũng giống như khi một xí nghiệp biết khách hàng có thể chọn mua của xí nghiệp khác thì họ cũng sẵn sàng hỏi ý kiến người tiêu thụ để tự cải tiến dịch vụ hay sản phẩm.
Trong trường hợp các nước cộng sản, thả lỏng cho người dân di cư, hoặc chính quyền nấp đằng sau việc tổ chức di cư, là một cách để giảm bớt số tiếng nói phản kháng có thể cất lên. Nhưng hai lựa chọn bỏ đi hay lên tiếng tác động nhau khiến cho chính sách thả lỏng di dân khiến cho nhiều người lên tiếng mạnh mẽ hơn. Như tại Ðông Ðức trước năm 1989, hai loại hành động của người dân chán ghét chế độ cộng sản đã hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau. Sau khi chính phủ Hungary (cộng sản) mở cửa biên giới với nước Áo (tự do và trung lập) vào đầu Tháng Năm 1989, hàng ngàn người Ðông Ðức (cộng sản) đã qua Hungary để tìm đường sang Áo, rồi từ đó vào tị nạn tại Tây Ðức (tự do). Ðến cuối Tháng Chín, đã có hơn 30,000 người theo con đường đó, khiến chính quyền cộng sản phải đóng cửa biên giới với Hungary; nhưng người dân vẫn biết cách tìm đường chui mà đi.
Người dân Ðông Ðức được tự do bỏ đi trong một thời gian, chính hành động này thay đổi cả cách họ nhìn thế giới và nhìn chế độ đang cai trị họ. Một khi cảm thấy được tự do hơn để lựa chọn giữa hai đường Bỏ đi (Abwandern), hay Lên tiếng (Widersprechen), người ta bỗng dưng thấy tự do là một điều đáng mơ ước, thấy trên thế giới này con người có thể còn rất nhiều thứ để lựa chọn nếu được tự do. Người dân bình thường chưa hề nghĩ tới việc bỏ đi hay là lên tiếng cũng chịu ảnh hưởng trước quyết định của những người khác. Tự nhiên, ai cũng ý thức được “tư cách người lớn” của mình, không ai chấp nhận sống dưới sự chỉ huy ngặt nghèo của một chế độ coi dân chúng như trẻ con nữa. Nhiều người quyết định không bỏ đi mà phải lên tiếng. Vì công ích chứ không phải vì mình. Mỗi ngày họ càng đông hơn. Họ đánh thức cả một dân tộc.
Năm 1990, Hirschman trở lại Berlin, sống một năm ở quê hương mà ông đã phải bỏ ra đi năm 18 tuổi. Suy nghĩ về mô hình cũ của mình, ông nhận thấy các biến cố đưa tới sự sụp đổ của Bức Tường cho chúng ta một bài học: Hành động Bỏ đi có thể tác động tác trên hành động Lên tiếng, vì có nhiều người bỏ đi nên càng thêm có nhiều người lên tiếng, chính vì nhiều người bỏ đi nên cường độ lên tiếng càng mạnh mẽ hơn! Cả hai loại quyết định đó đã hỗ trợ lẫn nhau đưa tới cảnh chế độ cộng sản sụp đổ.
Có thể dùng mô hình “Exit, Voice and Loyalty” của Hirschman để nhận định về tình trạng nước ta hay không? Chế độ cộng sản ở Việt Nam trước đây 30 năm từng cho tổ chức những vụ “vượt biên bán chính thức” để thu tiền “bán bến.” Nhiều cán bộ cộng sản đã làm giầu nhờ chủ trương này; nhưng đó cũng là một cách để giảm bớt số người “lên tiếng,” khi mở ra cho họ con đường “bỏ đi.” Những người đang “lên tiếng” chống chế độ bây giờ cũng được khuyến khích “bỏ đi” trước khi họ tạo thêm ảnh hưởng.
Ngày nay, còn những người thuộc loại “có của” cũng mới được thả cho “bỏ đi.” Bởi vì nếu còn ở trong nước nhiều người sẽ có ngày phải “lên tiếng” đòi những quyền tự do họ cần được hưởng. Có nhiều lý do khiến những người có tiền có của sẽ tới lúc cũng muốn “lên tiếng.” Thứ nhất, họ thấy rằng tài sản mình tạo ra chỉ được bảo đảm nếu xã hội sống trong luật pháp. Người ta sẽ sở phải tiếp tục sống với bọn cường hào tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm; như đã xẩy ra trong cảnh anh Nguyễn Tuấn Anh mới chết oan khuất ở Vĩnh Phúc. Ðến mạng người mà chúng còn không kiêng nể thì thử hỏi có cái gì khác được an toàn trong một đất nước do đám này “lãnh đạo?” Nhưng người ta cũng còn những nhu cầu tự do khác, ngoài quyền được sống trong luật pháp rõ ràng. Bởi vì chỉ có pháp luật công minh khi người dân được tự do, ít nhất là được tự do lên tiếng. Nhu cầu tự do này sẽ đẩy tới nhu cầu tự do khác. Cứ như thế, sẽ nguy hiểm cho chế độ.
Những người muốn lên tiếng hoặc phải bỏ đi thường là những phần tử ưu tú trong một xã hội. Một cửa hàng mà gặp được khách “sành ăn” thì có thể được nghe họ lên tiếng để giúp mình nấu nướng ngon hơn. Khi đám khách đó lên tiếng thì chủ tiệm phải biết cảm ơn. Còn nếu họ chỉ bỏ đi ăn tiệm khác, thì cửa hàng sẽ cứ làm thức ăn như cũ, không khá hơn được. Sẽ có ngày bị cạnh tranh đến sập tiệm.
Trong một quốc gia, những người hay lên tiếng cũng giống như đám khách sành ăn; thường là loại công dân có khả năng, biết cái hay khác cái dở, biết việc đúng khác việc sai. Họ cũng phải là những người có lý tưởng, không chỉ nghĩ tới quyền lợi và sự an vui của riêng mình mà còn lo cho đồng bào. Khi một quốc gia mất những thành phần có khả năng và có lý tưởng thì tai hại cho tương lai.

Khi những người có triển vọng lên tiếng mà lại bỏ đi thì chế độ sẽ kéo dài được lâu hơn. Nhưng phải nhớ lại trường hợp Ðông Ðức để thấy rằng khi số người bỏ đi và số người lên tiếng cùng gia tăng thì hai hiện tượng xã hội này sẽ thúc đẩy lẫn nhau, không thể tránh được. Số người lên tiếng lên cao còn tác động tới lòng Chung thủy (Loyatlty) của những người khác. Những người tính bỏ đi cũng có thể nghĩ lại, vì lòng “chung thủy” sẽ được khơi dậy. Trong tâm lý người Việt Nam, đó là tình tự sâu bền đối với quê hương, đất nước. Vì lòng yêu nước, nhiều người không thể nào chọn con đường “bỏ đi,” nếu nhìn thấy hy vọng có thể “lên tiếng” để cải thiện cuộc sống, cho mình và cho người chung quanh.
Nước ta hiện nay có rất nhiều người lên tiếng. Một nhạc sĩ 90 tuổi như Tô Hải đã ngậm miệng gần suốt đời, chịu không nổi nữa. Cô Trịnh Kim Tiến bắt buộc phải lên tiếng, và chắc chắn cô sẽ không chịu bỏ đi. Bà Phạm Thị Lài và con gái đã lên tiếng bằng những hành động bất đắc dĩ. Những người ít nói mãi cũng phải bật miệng lên tiếng. Nhà báo Nguyễn Ðắc Kiên thấy phải nói thẳng tại sao ông không đồng ý với ông Nguyễn Phú Trọng. Bao nhiêu người lên tiếng như vậy, còn đông hơn số các nhà trí thức Ðông Ðức lên tiếng trước năm 1989. Ðó là dấu hiệu đất nước sẽ phải thay đổi.