Cái duyên Nam
Bắc
Nguyễn Hữu Huấn 2010/10/30
Xin các mợ BắcKỳ chớ có buồn vì: không thể vơ đũa cả nắm, chỉ có phần
nào thôi.
 |
ẢNH MINH HỌA |
Khi ngồi viết những giòng chữ này thì vợ cháu đang ngủ say sưa trên
giường. Nhìn đôi chân dài thườn thượt của bà thò ra khỏi chăn, tự nhiên
cháu bật cười.
Thì ra vợ cháu cũng thuộc loại…chân dài ra phết, cao xấp xỉ 1,70 mét
chứ chẳng phải chơi. Năm ngoái gặp lại đám bạn cũ cùng binh chủng, trong
lúc chụp ảnh chung bỗng có thằng la lớn : “Chúng mày ơi ! đứng bên cạnh
bà này chắc ông phải kiễng chân lên mời xứng!“, làm vợ cháu ngượng chín
người.
Nghe nói bên Việt Nam bây giờ người ta tung hô tán tụng “những cô gái
chân dài“ dữ lắm, làm phim, lên ảnh, quảng cáo rùm beng, làm các cô cứ
tưởng mình là cái rốn của vũ trụ không bằng.
Có điều lạ là hầu như các mợ toàn là gốc miền Bắc, nói năng giọng Bắc,
nhìn đời với con mắt người Bắc và cư xử thì cứ “tự nhiên như người Hà
Nội“.(Bật mí cho các cụ nhé: bây giờ thì đa số các mợ Hà Nội chính gốc đã
thi nhau làm “con chim đa đa“ bay qua xứ khác lấy chồng xa hay đi kiếm
cơm hết ráo, còn lại toàn là gốc Hà-Nam-Ninh hay Thanh-Nghệ-Tĩnh lên Hà
Nội lập nghiệp).
Hay là ông Trời sinh ra người càng ở vùng phương Bắc thì da càng trắng,
mũi càng cao và chân càng dài, cứ nhìn mấy ông Tây bà Đầm là biết ngay.
Thế nhưng ”bà già chân dài” vợ cháu lại là dân Nam kỳ tuốt luôn tận
phương Nam, là thứ Nam kỳ chính hiệu con nai vàng, quê Cái Bè, nội Cái
Răng, ngoại Cái Dồn. Hoá ra “mũi cao, chân dài“ đâu phải độc quyền của
các mợ Bắc Kỳ 75, các mợ nhờ “tàn dư đế quốc“ nên chỉ mới xuất hiện sau
này thôi, chứ ngay trong „thời kỳ chiến tranh“ cách đây mấy mươi năm thì
“mũi cao, chân dài“ như Nam kỳ vợ cháu đã nhởn nhơ đầy đường. Đúng là một
cọng giá “thời kỳ chiến tranh“ vẫn hơn một gánh rau muống “thời kỳ hoà
bình đổi mới “!
Bố mẹ cháu sinh cháu ra tại miền Bắc, học hành và lớn lên cùng với gia
đình trong miền Nam, để rồi trưởng thành tận ngoài miền Trung. Từ những
tính chất của ba miền đã hợp lại tạo nên cháu thành một thứ “hẩu lốn“:
“như canh chua nấu với...rau muống, giá sống ăn với...bún riêu, nhậu bia
với ché mà lại chấm với ...xì dầu". Thế nhưng cái bản chất Bắc kỳ
vẫn là cái cốt lõi trong con người cháu từ lúc sơ sinh, vẫn Bắc kỳ rau
muống mắm tôm, Bắc kỳ truyền thống, Bắc kỳ muôn thuở...Nhưng ông Trời oái
oăm lại sai ông Tơ bà Nguyệt xe duyên cháu làm thằng tù khổ sai chung
thân cho một bà vợ Nam kỳ quốc. Lạ thật ! Duyên hay nợ đây Trời!
Hồi còn bé, thú thật cháu chẳng ưa gì Nam kỳ. Còn ghét, còn hận nữa là
khác. Chuyện cũng dễ hiểu thôi : lần đầu cắp sách đến trường tiểu học Bàn
Cờ ở quận 3, Sài Gòn, chỉ có cháu với một thằng nhô nữa là Bắc kỳ. Thằng
này có hàm răng đưa hơi xa ra phía trước, mà văn chương Bắc kỳ gọi là
“vẩu“, còn Nam kỳ gọi đơn giản và rất tượng hình là cái “bàn nạo dừa“. Bố
nó (không vẩu tí nào) rất thân với bố cháu (cũng chẳng có bàn nạo dừa) vì
cả hai gia đình cùng đi chung chuyến tàu “há mồm“ vào Nam năm 54.
Hai thằng Bắc kỳ con nhất định ngồi cạnh nhau tạo thế liên hoàn “dựa nhau
mà sống“ trong cái lớp học 27 trự Nam kỳ con. Bọn chúng hè nhau trêu
chọc, ăn hiếp hai đứa chúng cháu. Mỗi lần ra chơi hai thằng Bắc kỳ con
luôn tìm chỗ ít người mà đứng để khỏi nghe bọn Nam kỳ đọc thơ chọc quê
chửi bới. Thằng Vọng, đứa đầu xỏ và to con nhất đám (bây giờ đang ở
Canada) leo lên cây vú sữa giữa sân, đọc thơ rang rảng:
"Bắc kỳ ăn cá rô cây
Ăn nhằm lựu đạn...chết cha Bắc kỳ "
Một thằng khác sẵn giọng phụ họa:
"Có cái thằng nhỏ nó đao làm sao
Lỗ đ. nó dính cái cọng rao,
Người ta ai mà kỳ như dzậy ?
Thế là cả bọn đồng loạt chỉ ngay vào bọn cháu rồi rống lên: "Thôi
rồi ! Bắc kỳ, Bắc kỳ!”
Cháu tủi thân lắm ! Ôi thôi ! buồn da diết, buồn vô biên, buồn phát
nghiền !
Về nhà hỏi mẹ tại sao gia đình mình lại vào đây làm quái gì để chúng nó
trêu con suốt ngày. Mẹ cháu rướm nước mắt, xoa đầu cháu giải thích đơn
giản:
- Tại vì người ta đánh nhau quá nên gia đình mình phải "ri
cư" vào đây con ạ ! Thôi chịu khó đi con, mẹ biết làm sao bây giờ !
Nào đâu đã hết, chúng nó còn hè nhau tụ tập trước cửa nhà cháu. Mẹ cháu
cầm chổi lông gà ra đuổi. Chẳng đứa nào sợ, trái lại còn tru tréo to hơn.
Chợt thấy hàm răng của mẹ cháu nhuộm đen ngòm và bóng loáng, thế là chúng
nó cứ thế mà gào:
Bắc kỳ ăn cá rô cây
Ăn nhằm cục c. , hàm răng đen thùi
Trong gia đình, chỉ có bố cháu là chẳng thằng Nam kỳ con nào dám giỡn
mặt. Có lẽ nhờ khuôn mặt có oai hay nhờ đôi mắt nghiêm khắc của ông, mà
chúng sợ một vành không dám trêu chọc một lời ?
Ngày tháng qua mau, cứ thế mà đám Bắc kỳ "ri cư”, trong đó có gia
đình cháu, vẫn sống phây phây trên mảnh đất Nam bộ lạ hoắc nhưng trù phú
này. Những cảnh chọc quê dần dần biến mất, bạn bè nhiều hơn, trong đó dĩ
nhiên không ít đứa Nam kỳ. Đứa Sài Gòn chính tông, đứa Sa Đéc, đứa Vĩnh
Long, đứa Mỹ Tho, Cần Giuộc...Nhưng đứa nào cũng chửi cháu là "thằng
Bắc kỳ lắm mồm”. Không "lắm mồm” chứ để chúng mày ăn hiếp ông hả ?
Nghĩ cho cùng, không "lắm mồm” thì đâu còn là Bắc kỳ nữa ! Thứ
"lắm mồm” được việc, "lắm mồm” nghe vẫn bùi tai, "lắm mồm”
dễ mến, thiếu thì nhớ, vắng thì mong, "tay chơi” nhưng vẫn
"chân tu”, gái Nam kỳ cứ thế mà..."lắc lư con tàu đi”. Càng lớn
lên cháu càng khoái Miền Nam, khoái Sài Gòn, nơi dễ có nhiều bạn, mà bạn
lại không tồi. Nơi đó có dừa xiêm dzú sữa, có chè đậu xanh bột báng nước
dừa, có bánh bèo trét mỡ trắng phau phau, có nước mắm đường ngọt lịm, có
cá bống trứng kho tiêu, có trái cóc ngâm đường cắm que cà rem chấm muối
ớt, có quán cơm bà Cả Đọi, có cả những con đường hẻm ngoằng nghoèo dẫn
đến nhà ...chị Tình.
Miền Nam và Sài Gòn thật trong veo khoáng đạt, không tự tôn như cái Bắc
kỳ đã có sẵn từ bẩm sinh trong bụng cháu, không rườm rà "màu mè ba
lá hẹ”, chân thành thật thà, thẳng ruột ngựa, không làm vẫn có ăn, chơi
xả láng sáng về sớm, để rồi vẫn cứ yêu người, yêu đời.
Có lẽ cũng cùng một cảm nhận như thế nên đám Bắc kỳ "ri cư” chúng
cháu mới vào Nam chỉ có cái quần xà loỏng trên "tàu há mồm” đã lợi
dụng thời cơ hè nhau tung ra dành dân chiếm đất khắp cõi Nam bộ, mà lại
ăn nên làm ra trên mọi lãnh vực, trong đủ tầng lớp xã hội, nhất là vùng
Sài Gòn Gia Định và các vùng phụ cận, chỗ nào làm ăn ngon lành thuận lợi
là mấy mợ Bắc kỳ rau muống sang tay hàng loạt, ngoại trừ phía bên trong
chợ Bến Thành và vùng Chợ Lớn, vì chẳng thèm "kèn cựa” với các chú
Ba. Đã bảo rồi mà...: " Bà đã nàm thì nàm thật chứ không thèm nàm
nấy ne, nàm nấy nệ !”
Từ sau năm 75 thì Bắc kỳ lại càng ăn trên ngồi trốc, các cụ không tin cứ
mở cái máy "dzô tuyến chuyền hình” hay cái "ra dzô” ra thì thấy
liền, các "xướng ngôn dziêng” hầu như "chăm phần chăm” đều là
Bắc kỳ, không cậu thì mợ. Còn các mợ tiếp dziêng "E Việt Nam”, mợ
nào mợ nấy đều khoe "em người Hà Lội” hết ráo ! Chẳng biết tại
"dziêng dzáng” hay ”phe đảng” ?
Bố cháu trái lại, cái chất Bắc kỳ đã ăn vào máu, thấm vào cốt lõi xương
tủy của ông từ bao đời, nhất quyết bắt anh em cháu phải thi vào trường
Chu Văn An (CVA), con em gái phải thi bằng được vào trường Trưng Vương,
toàn là những trường nổi tiếng từ miền Bắc, kéo theo các thày cô "ri
cư” vào Nam. Phần vì bố cháu là cựu học sinh trường Bưởi, phần vì ông
cũng có chút thiên kiến và ít tin tưởng vào các trường miền Nam như Petrus
Ký hay Gia Long. "Mình dân Bắc thì phải học trường của người Bắc,
chúng mày đừng có bàn với bạc lôi thôi !”, bố cháu phán cứ như đinh đóng
cột.
Mà lạ thật ! Vào học Chu Văn An mới thấy toàn đám học sinh Bắc kỳ, le que
vài trự Nam kỳ lạc lõng vô duyên, đếm chưa đủ mười đầu ngón tay đã hết
đứa Trung kỳ. Cho đến các thày đa số cũng lại Bắc kỳ nốt, từ thày hiệu
trưởng Dương Minh Kính đến thày thi sĩ Vũ Hoàng Chương.
Còn bên Petrus Ký thì ngược lại, hầu hết Nam kỳ. Hóa ra vung nào thì vẫn
cứ đi tìm nồi nấy, hay hoặc giả có chính sách của chính quyền thời đó hay
không ? Chẳng thành vấn đề, chỉ biết bọn Nam kỳ Petrus Ký châm biếm đổi
tên Chu Văn An thành ...Chết Vì Ăn ! Cháu tức máu trả đũa, rằng chúng mày
ghen ông vì chúng mày chiêm ngưỡng các em Bắc kỳ Trưng Vương mà thèm nhỏ
dãi, nhưng sờ vào thì chúng mày sẽ thành con dế mèn để các em Bắc kỳ thọc
cọng nhang sau gáy thổi quay vòng vòng ! Tức quá, mấy trự Petrus Ký chỉ
biết "ngậm ngùi” đồng ca bản ”Khúc nhạc đồng quê” rằng thì là:
"Quê hương tui Bắc kỳ nhào dzô quá trời
Bên bờ sông bên bờ ao...trồng rau muống !”
Hay cũng là: "Quê hương tui cái mùng mà kêu cái màn !....”
Thôi thì cũng đúng thôi ! Mấy trự Nam kỳ hay Trung kỳ chỉ cần nghe một mợ
Bắc kỳ uốn éo ra chiêu vài đường lưỡi thì đã nhũn như chi chi, mắt trợn
ngược, mồm há hốc, quên luôn cả tên họ mình. Chỉ có trai Bắc kỳ mới trị
nổi các mợ Bắc kỳ thôi ! Này nhé, các cụ cứ chịu khó nhìn chung quanh đi,
cứ một trăm trự Nam kỳ chưa chắc có được một trự vớ được một mợ Bắc kỳ.
Tìm mỏi con mắt mới có một trự "diễm phúc” bế được một mợ mang về
nhà thì bảo đảm suốt cuộc đời còn lại chỉ biết bốn chữ "gọi dạ bảo
vâng”, răm rắp tuân lệnh bà, chẳng bao giờ còn nhìn thấy mặt trời, mặc dù
suốt ngày ngửa mặt than Trời ! Đấy mới chỉ là các mợ Bắc kỳ 54 thôi nhé !
Gặp cỡ các mợ 75 hay các mợ quê quán Hà Đông hay Bắc Ninh "...cầm
roi dạy chồng” thì ôi thôi ! cái te tua nó kéo luôn theo cả tông ti họ
hàng, suốt đời hưởng "cái thú đau thương”, nghe chửi cứ tưởng
nghe...hát. Hỡi các chú Nam kỳ hậu sanh: chớ chơi dại!
Đừng nghe ông Phạm Duy hát bài "Cô Bắc kỳ nho nhỏ” mà ham, lừa đấy !
Gặp Nam kỳ thì cái "nho nhỏ” kia sẽ phình to hơn cái vại, mà cái vại
có nanh ! Ngược lại, một cậu Bắc kỳ rau muống quơ được một cọng giá Nam
kỳ "đem về dinh” –vụ này nhiều lắm- thì cứ như "rồng thêm
cánh”, như "diều gặp bão”, như lái ô tô không cần Navigation.. . cả
đời có người "nâng khăn sửa túi” không công. Hóa ra hôn nhân cũng có
quy luật đấy chứ:
Chồng Bắc kỳ + vợ Bắc kỳ = Vợ chồng đề huề, nếu biết cách
Chồng Bắc kỳ + vợ Nam kỳ = Chồng phây phả, phè cánh nhạn.
Chồng Nam kỳ + vợ Bắc kỳ = Chồng te tua, lưng còng.
Nhưng đã là "luật” thì bao giờ cũng có "luật trừ”, nghĩa là
cháu không dám vơ đũa cả nắm đâu, với lại cháu chỉ lợi dụng cái "tự
do ngôn luận” trên xứ người, xin bàn bậy vài chữ ngu ngơ để các cụ trong
lúc "trà dư tửu hậu” đem ra trước là mua vui, sau là cho bớt chút
căng thẳng trong cái cuộc đời ... đen như mõm chó này. Xin lỗi các cụ,
nẫy giờ nói loanh quanh mãi, bây giờ cháu xin trở lại chuyện của cháu.
Bố cháu nghiêm khắc lắm và dĩ nhiên giáo dục con cái theo truyền thống
Bắc kỳ. Đã có gốc có ngạnh, có cả sự nghiệp bề thế trong Nam nhưng
vẫn...thờ cơm Bắc kỳ, vẫn lễ phép Bắc kỳ, vẫn giữ giọng nói Bắc kỳ và
thậm chí còn ra lệnh, dâu rể cũng phải...Bắc kỳ ! Mỗi lần cháu dẫn bạn gái
về nhà, bố cháu liếc mắt một cái là biết ngay cô nàng Bắc hay Nam.
Có một ông bố tinh đời như thế đôi khi lại...phiền. Với một mợ Bắc kỳ, bố
cháu thân mật tươi cười "Cháu vào nhà chơi ! bố mẹ cháu khỏe mạnh
không ?”, cứ làm như quen biết từ lâu vậy. Gặp cô ả Nam kỳ thì lạnh nhạt
khinh khỉnh "Không dám, chào cô !” Cô bạn gái Nam kỳ mặt nghệt ra
thưởng thức văn chương Bắc kỳ, còn cháu nghe qua mà thốn từ dạ dầy đến
ruột non.
Nghe Bắc kỳ chê, nghe Bắc kỳ chửi, mà cứ tưởng mình đang nghe thơ phú hay
nghe nhạc êm dịu mới chết chứ ! Nếu quen cô nào Trời sinh có mấy cái vòng
hơi...sexy một tí, Bắc cũng như Nam, cháu phải dấu biệt vì sợ lựu đạn nổ
tung trong nhà. Điệu này coi bộ hơi khó sống. Thôi thì Bắc Trung Nam cũng
một nhà, hạnh phúc lứa đôi đâu phải do thằng hàng xóm, mà là do chính
mình. Thế rồi cháu đã từng hạ quyết tâm với bố: lấy vợ Bắc kỳ, cho phải
đạo làm con. Em nào Bắc kỳ, rước về nhà cho bố xem mặt mà bắt hình dong
(cứ như đi mua gà chọi). Em nào Nam kỳ, điểm hẹn sẽ là mấy ống cống dưới
gầm cầu xa lộ Đại Hàn.
Thiên bất dung gian! cháu lại phải lòng một ả Nam kỳ, Nam kỳ không lai
giống, cái thứ Nam kỳ Gia Long kên kên xí xọn. Hồi đó cháu đi lính Không
Quân của miền Nam, thấy đám phi công trời đánh đa số cũng đều là Bắc kỳ,
chẳng hiểu tại sao? Dân Nam kỳ cũng có, Trung kỳ lại càng ít hơn, nhưng
đứa nào cũng có ..."cái mồm Bắc kỳ”.
Cháu còn nhớ khi thi gia nhập Không Quân, phải đủ ký lô, đủ kích thước,
lục phủ ngũ tạng bị khám tuốt luốt, phải trần trùng trục như con nhộng
rồi nhẩy lên nhẩy xuống cho mấy ông bác sĩ ..."vạch lá tìm sâu”, chứ
đâu có thi tuyển đứa nào "lắm mồm”! Thế mà thằng nào thằng nấy đều
có cái "chứng chỉ lắm mồm” cao hạng dấu kỹ trong túi áo bay.
Một hôm đang trực phòng hành quân thì ông xếp (ông này Nam kỳ quốc) hỏi
có thằng nào rảnh ra phi đạo chở con cháu gái vợ của xếp theo tàu từ Sài
Gòn ra Nha Trang đem về nhà bà vợ đang có bầu sắp đẻ. Tưởng đi biệt phái
hành quân chứ cái màn này cháu khoái lắm: "Chuyện nhỏ mà xếp, có tui
ngay”. Ông xếp của cháu cũng chẳng vừa, nhìn thấu tim gan thằng đàn em :
"Lẹ lẹ lên coi, tàu sắp đáp rồi đó, sách tao mày học hết còn dư có
cái bìa, nhưng mà từ từ thôi nghe cha nội, lạng quạng con mẻ chửi tao
thấy bà !” Lúc đó cháu đâu có ngờ rằng, cái chuyện nhỏ như mắt muỗi này
lại thành chuyện lớn, lớn khủng khiếp, ảnh hưởng đến hết cả cuộc đời cháu
!
Cô cháu gái ông xếp không có cái dạng "ngực tấn công, mông phòng
thủ” như trong "xi la ma”, thế mà ngay từ phút ban đầu cháu đã bị
dáng ngay tim một cái búa tạ chình ình chứ chẳng phải tiếng sét tầm
thường.
- "Cô đi máy bay có mệt lắm không ?”
– "Dạ !”.
-"Ra thăm cô dượng hả ?”
– "Dạ !”.
-"Cô lên xe đi, tôi đèo cô về”
--"Dạ !”...
Chèng đéch ơi ! sao mà cụt ngủn cộc lốc thế bà nội ? Cái gì cũng ”dạ” hết
ráo thì cháu biết đâu mà rờ ! Đúng gái Nam kỳ ! Chợt nghĩ, không biết bà
dzợ xếp tới giờ này có còn ”ngây thơ”, ”dạ dạ” với xếp như dzậy nữa hay
không ? Xếp cháu đang ở San José, nếu xếp có đọc những giòng chữ này thì
xếp cũng bỏ qua dùm vì thằng em đã thuộc lòng trọn bộ sách của xếp từ
khuya rùi !
Từ đó cháu với nàng rủ rỉ rù rì cùng nhau đánh vần mấy chữ ”hình như là
tình yêu”. Cuộc tình của cháu với nàng êm ả như quả lắc đồng hồ treo trên
tường phòng khách nhà cháu, nhưng mỗi khi nghĩ đến bố cháu thì quả lắc
đồng hồ bỗng ngất ngư như bị đứt dây thiều. Thương quá, cháu đánh liều,
”mấy sông anh cũng lội, mấy đèo anh cũng qua”, chuyến này nhất quyết
không chui ông cống gầm cầu xa lộ, mà dắt nàng về nhà trình diện bố. Bố
vẫn khinh khỉnh: ”Không dám ! chào cô”. Nàng vui tính: ”Ba anh coi ngầu
quá hén!”, cháu tỉnh bơ: ”Không ngầu sao làm bố anh được !”.
Thật ra thì bố cháu đâu có ghét Nam kỳ, ông chỉ phàn nàn rằng dân Nam kỳ
được trời đãi, cho sống trên mảnh đất mầu mỡ phong phú, không làm vẫn có
ăn, mà lại ăn ngon nữa, nên có tính lè phè, hoang phí, không chăm chỉ hạt
bột, không cần cù tiết kiệm như Bắc kỳ. Ông chỉ vì thương con, lo cháu
lấy nhằm cô vợ Nam kỳ cả ngày chỉ biết...phè cánh nhạn, ăn no lại nằm,
thì con cưng của ông sẽ thành thân trâu ngựa suốt đời. Còn mẹ cháu, vốn
dĩ nhà quê răng đen mã tấu bảo rằng, nghe Nam kỳ nói chuyện cứ tưởng nghe
tiếng nước ngoài, chỉ hiểu một nửa ! Cháu cãi lại, Bắc kỳ cũng có khối
đứa lười, lười như..cháu đây là hết mức rồi !
Một hôm cháu đưa nàng về nhà, gặp lúc bố mẹ cháu sửa soạn mở tiệc đãi ông
bác từ Hố Nai lên thăm. Ông bác vui tính bảo tiện bữa ngồi ăn luôn, cháu
đang chần chừ thì nàng vén áo hạ ngay cái bàn tọa tròn lẳng xuống ghế,
cháu kéo lên không kịp. Cháu thủ thỉ giải thích cho nàng rằng, đi đâu gặp
khách Bắc kỳ mời ăn thì chớ có ăn liền, cứ để người ta mời dăm lần bẩy
lượt, ăn liền người ta chửi mình...chết đói !
Nam kỳ thì thẳng ruột ngựa, mời là cháp lẹ, không cháp dọn xuống bếp, đói
ráng chịu, không mời lần thứ hai, ai biểu mời không ăn ! Bỗng mấy đứa em
cháu thay phiên nhau : ”Mời bác xơi cơm, mời bố xơi cơm, mời mẹ xơi cơm,
mời anh xơi cơm, mời chị xơi cơm”, mời... mời... mời tùm lum!. Thằng em
út cháu mời dài nhất, mời lâu nhất, mời từ trên xuống dưới , trong nhà
chỉ có con Tô Tô đang nằm chực dưới gầm bàn là nó không mời. Nó lại chẳng
được ai mời để xơi, út mà ! nhưng rồi vẫn xực ào ào !
Cô bạn Nam kỳ của cháu trố mắt nhìn cháu chẳng hiểu chuyện gì xảy ra.
Cháu vội ghé tai thì thầm:
- Em mời gia đình ăn cơm đi !
- Ủa ! gia đình anh mời em ”ăng” mà ? Bộ ”ăng” cũng phải mời...mời...xơi
...xơi sao?
Nàng ấp a ấp úng cũng ráng mời:
- Dạ mời bác, mời bác, dạ mời... à... à... mời anh, mời em...
Chợt bố cháu lên tiếng:
- Thôi đủ rồi, cháu mời người trên thôi, còn mấy em cháu không phải
mời...Mà hay thật ! Con bé này vui vẻ, ngoan ngoãn lắm ! Sao con cứ ăn
hiếp nó mãi !
Nghe bố cháu nói mà bụng cháu cứ như mở cờ, ông còn cao hứng bảo khi nào
nàng nấu cơm Nam kỳ cho gia đình cùng ăn. Cô nàng hí ha hí hửng nói liền:
- Dạ ! (lại dạ!), để bữa nào cháu nấu bún(g) mắm dzới thịt heo ba rọi
cho bác ăn(g), bún(g) mắm thịt ba rọi Trà Dinh ngoong nhức miền Nam nghe
bác !
- Sao ? cô muốn búng hả ? Lỗ tai tôi đây này, muốn búng bao nhiêu thì cứ
búng đi !
Thế là cả nhà cháu được một trận cười nắc nẻ. Nào đã hết đâu, mẹ cháu
chợt bảo:
- Cháu xuống bếp lấy cho bác mấy cái ”cùi dìa” với cái ”muôi” để trong
ngăn kéo đấy !
Nàng ngớ ra cứ như được nghe tiếng...Tây, nhìn cháu cầu cứu. Cháu cười hì
hì khoái tỉ, ra cái điều thông thái giải thích ngay:
- Cái ”cùi dìa” Nam kỳ kêu là cái ”muỗng”, tại Bắc kỳ sống lâu với bọn
Tây, chúng nó gọi là ”la cuiller” thì Bắc kỳ gọi luôn là cái ”cùi dìa”
cho tiện. Còn cái ”muôi” Nam kỳ kêu là cái ”vá”, chữ ”vê” thì đọc là ”dê”
cho nên gọi là cái ”dzá”, phải không ?
Nàng đỏ mặt, bĩu môi ”Cái đồ dzô dziêng, tui đi dzìa à nghen !”
Sau bữa cơm hôm ấy, hình như bố cháu bắt đầu ”chuyển hệ”, có vẻ gần gũi
thân mật với nàng hơn vì thấy nàng thật thà, có sao nói dzậy, không bãi
bôi, không vòng vo tam quốc, nhất là...không lười như ông nghĩ. Thừa
thắng xông lên, cháu thủ thỉ với mẹ cháu là cháu muốn lấy nàng làm vợ. Mẹ
bàn với bố, bố vẫn ngần ngừ.
Tại bố cháu không biết đấy chứ, cháu đọc lóm từ một quển sách nào đó
người ta viết rằng, trong lịch sử nước ta hầu hết các vua chúa miền Trung
đều có nhiều bà vợ bé, mà hầu như bà nào là Chánh Cung Hoàng Hậu cũng đều
là Nam kỳ: vua Minh Mạng có rất nhiều vợ, đa số là các bà Nam kỳ, Chánh
Cung là bà Hồ Thị Hoa, người Biên Hòa; Chánh Cung của vua Thiệu Trị là bà
Từ Dũ, người Gia Định; Vợ chánh của vua Bảo Đại là bà Nguyễn Hữu Thị Lan
(tức Nam Phương Hoàng Hậu), là người Gò Công. Mấy ông vua cũng tinh đời
đáo để ! Nhưng cháu ”không phải là vua, nên mộng ước thật bình thường ”,
chỉ xin ”...quỳ lậy Chúa trên Trời, sao cho lấy được ...con nhỏ Cái Bè
con thương !”
Thật là oái oăm: cá đã cắn câu mà bố cháu vẫn chưa cho giựt cần! Tuy thế,
thỉnh thoảng bố cháu cũng dò hỏi về gia đình nàng. Thì cháu đã nói rồi
mà, ”quê Cái Bè, nội Cái Răng, ngoại Cái Dồn”, ruộng đất mênh mông, sông
nước dập dình, ăn nói ”ngắn gọn và dễ hiểu” chứ không ”dài dòng nhưng khó
hiểu”... kiểu Bắc kỳ ! Chấm hết!
Ngày vui nhất đời cháu là ngày bố cháu ra lệnh sửa soạn ”lên đồ dzía” đến
thăm gia đình nàng. Sao bố cháu không nói thẳng thừng ra là đi ”hỏi vợ”,
đi ”chạm ngõ” cho xong. Nhưng mà cần gì phải ”chạm ngõ” với lại ”chạm
cổng” cho rườm rà rắc rối, nhà của nàng cháu biết từng phòng, quen từng
góc, rõ từng cột.
Mỗi lần cháu từ đơn vị ”dù” về đều có chút quà biếu ba má nàng, cho mấy
đứa em nàng và cho cả cô Ba giúp việc trong nhà (học theo sách dụ khị của
xếp cháu đấy !). Lần nào gặp ba nàng là lần đó có...nhậu. Đồ nhắm lúc nào
cũng có sẵn, lúc củ kiệu tôm khô, khi ra sau hè ngắt mấy trái xoài tượng
chấm mắm nêm ngào ớt, kẹt quá cột sợi ny-lông dzô ngón chân cái, đầu kia
cặm mấy con trùng liệng xuống sông, cũng câu được mấy con cá lên nướng
làm mồi. Nam kỳ trù phú mà ! Ổng không nhậu bia nhậu rượu, mà nhậu đế;
không nhậu bằng cốc hay ly mà nhậu bằng tô, tô nào tô nấy bằng cái bát ăn
cơm nhà cháu. Thế mà ổng lúc nào gặp cháu thì cứ nói rằng: ”Dô dzới tao
dăm ba sợi nghe mày !” Chưa tới nửa sợi cháu đã guắch cần cẩu ! ”Lính
tráng như mày chi mà yếu xìu sao oánh giặc nổi ? Dzô cái coi !” Ổng
thương, ổng coi như con như cháu, ổng mới kêu cháu bằng ”mày”. Tiếng
”mày” của Nam kỳ biểu lộ cái chân tình, sự gần gũi thân thương, không như
Bắc kỳ khi đã xổ ra tiếng ”mày” rồi thì ... ô hô ! ô hô ! thiện tai !
thiện tai ! chạy cho lẹ !
Một hôm đang nướng con mực khô nhậu lai rai với ổng, bỗng có khách gõ cửa
bước vào, mặt ổng sáng lên như sao băng, vừa cười vừa nói:
- Chèng đéc ơi anh Sáu Lèo ! hôm qua tui chờ qua qua mút chỉ cà tha,
hôm qua qua nói qua qua mà qua hổng qua, hôm nay qua nói qua hổng qua mà
qua lại qua, nay qua rồi có thằng rể tương lai tới thăm, nhào dzô chơi
vài xị, hôm nay có ớt nè qua !
Nói chi mà cứ qua đi qua lại, qua tới qua lui, nói cũng như thơ phú đấy
chứ, thế mà mẹ cháu cứ nói tiếng Nam kỳ nghe sao như tiếng...nước ngoài !
Bắc kỳ vẫn có câu ”dâu là con, rể là khách”, nhưng Nam kỳ thì ”dâu là
con, rể cũng là...con luôn”. Bố dzợ chịu chơi lại gặp thằng rể cũng chịu
chơi luôn, dzô ba xị rồi thì coi như...bạn, chơi xả láng sáng dzề sớm,
còn má dzợ bỗng nhiên thành... chơi chịu ! Nàng kể cho cháu nghe, nhiều
lần ổng đi nhậu quá giờ giới nghiêm chưa chịu về, cả nhà trông đứng trông
ngồi. Chợt nghe tiếng xe Vespa quen thuộc chạy ngang nhà, cứ thế nghe cái
”dzù” rồi lại chạy mất tiêu, lại nghe cái ”dzù” rồi đi tuốt luốt ! Sinh
nghi, nàng chạy ra cổng đón đường chặn xe : ”Ba ui ! Ba ui ! Tới nhà rồi
nè !”. Ổng chợt tỉnh, quẹo dzô thắng cái ”két”, xe đổ cái rầm, ổng té cái
đụi, miệng lèng nhèng ” Ủa, nhà mình đây rồi sao? Dzậy mà tao chạy dzòng
dzòng kiếm hoài hổng ra !”
Ngày cưới, cháu chọn nhà hàng Đại La Thiên của chú Ba tuốt bên Chợ Lớn
cho có vẻ trung dung, không Nam cũng không Bắc mà là cơm Tàu. Không xài
Karaoke nhưng chơi nhạc sống. Có ông chú dzợ tên là Ba Phoóng làm nhạc
trưởng cho mấy bà xồn xồn Nam kỳ lên sân khấu ca cải lương hà rầm. Hình
như 7 thứ nghệ thuật của nhân loại đối với Nam kỳ đều tóm gọn trong mấy
câu dzọng cổ thiệt mùi.
Đám cưới cháu người ta chụp nhiều hình lắm. Ông bố vợ coi hình gục gặc
cái đầu: ”Chèng đéch ơi ! thằng rể tao chụp hình coi phông độ dzữ hén !
Ráng nghe mày !” Cháu chẳng hiểu ổng nói cháu phải ráng cái gì ? Nhưng có
một cái cháu phải ráng là cái chắc, ai biểu ham dzợ Nam kỳ...mũi cao chân
dài !
Còn bố cháu xem ảnh thì lại phán một câu xanh rờn: ”Con dâu bố chụp với
bố ảnh này đẹp quá, giá mà đứng cạnh bố con khoanh tay lại thì còn đẹp
hơn biết bao !”. Ông xếp cháu, khơi khơi tự nhiên thành ông dượng, sẵn có
dăm ba ly nhưng mắt vẫn láo liên ngó bà cô, rồi len lén kể lể làm oai:
”Thấy chưa mày! Hồi đó tao xách máy bay xuống Vĩnh Long rồi lạng qua Cái
Bè, mới lạng chơi dzài ba dzòng là dzớt luôn bà cô mày, ngon chưa !” Cám
ơn ”ông xếp dượng” đã có công ”nối giáo cho giặc” rồi rước luôn giặc vào
nhà. Còn mấy thằng bạn Không Quân quỷ sứ thì xúm nhau ca bản ”Mùa thu
chết ”... đã chết rồi, cho mày...chết luôn!
Ngày qua ngày, cháu không chết mà vẫn sống nhăn răng với bà vợ ”quý phái
bình dân”, bây giờ đã có 4 con với 3 đứa cháu ngoại để nựng. Nam kỳ cũng
chăm chỉ đấy chứ ! Thế là xong một đời phiêu bạt giang hồ, bay bướm, quậy
phá ! Được cái vợ cháu cưng cháu lắm (Nam kỳ mà!), bao nhiêu công việc
trong nhà từ lau nhà, rửa chén, hút bụi, trồng cây, giặt đồ...vợ cháu dành
làm hết ráo.
Bả nói ”tay chân ông như thằng cùi, làm đâu hư đó, để tui làm luôn cho lẹ
!”. Cháu đi làm mang tiền về, bả cũng không thèm động tới, bảo rằng ”tui
hỏng cần anh nuôi tui !” Thế nhưng vợ cháu ghen khỏi nói, trong vườn
trồng nhiều ớt hơn trồng hoa, ghen có đẳng có cấp, ghen có kế hoạch, có
phương án đàng hoàng. Ghen thì ghen, lâu lâu cháu cũng theo bạn bè...nhảy
dù vài sô, về nhà im thin thít, thế mà bả cũng ”nghe” được mùi, lườm
lườm, nguýt nguýt, rồi cũng huề tiền.
Sau này cháu mới khám phá ra vợ cháu rất sòng phẳng, đâu ra đó, nếu ”ăn
bánh trả tiền” là...cho qua cầu gió bay, không thèm chấp. Một hôm vô tình
đọc báo thấy tin cô Quờn, người Sóc Trăng, ghen chồng lăng nhăng, lẳng
lặng lựa lúc chồng đang say túy lúy, xách con dao bếp cắt luôn...của quý
của chồng đem quăng sau vườn. Cô Quờn ra tòa ngồi chơi 4 năm tù. Trời đất
Thiên địa ơi! Nam kỳ mà ghen kiểu này chắc cháu chết sớm, cháu dấu luôn
tờ báo, ai dè vợ cháu chu môi oỏng ẻng : ”Cái đó còn đỡ à nghen ! gặp tui
là tui cho luôn dzô cái máy xay thịt rồi quăng cho bầy gà ăn, chớ giờ
người ta dzăng minh lắm, khâu nối lại mấy hồi !” Má ơi là má ! Cháu nghe
mà ớn lạnh xương sống! Chơi kiểu này thì hơn xa các mợ Bắc kỳ rồi ! Nhưng
cháu lại được phép kéo bạn bè về nhậu...xả láng, nhậu ”vô tư”. Xỉn quá
thì : “Anh mệt rồi nghen, uống ly nước đá chanh nè, rồi dzô đây em cạo
gió hết liền !”. Bạn bè ói mửa tùm lum thì : ”Hổng sao đâu, anh ngồi tiếp
mấy ảnh đi, em dọn cho !” Mấy thằng bạn có vợ Bắc kỳ ngó phát thèm !
Chắc khí thiêng sông núi Bắc kỳ linh thiêng hùng vĩ , hay nói theo khoa
học hiện đại là cái ”dzen” Bắc kỳ quá mạnh, nên vợ cháu nửa dưới vẫn còn
là Nam kỳ, nhưng nửa trên đã hóa thành Bắc kỳ: không nói ”bự bành ky” mà
nói ”to vật vã”; không gọi ”trái bom” mà gọi ”quả táo”; thích ăn canh rau
muống hơn nấu canh chua; nhưng đặc biệt nhất là ăn nói không còn ”ngắn
gọn và dễ hiểu” như xưa, mà bây giờ thì.. ôi thôi ! ”dài dòng, ào ào như
thác đổ”, nghe riết muốn khùng !
Bố cháu ăn ”bún(g) mắm thịt ba rọi” của vợ cháu nấu, đến phát nghiền,
nghiền luôn cả chén nước mắn pha đường. Nhà cháu có bốn anh em trai thì
bố cháu có tới ba ả dâu Nam kỳ, nhưng cả đám hợp lại vẫn thua xa một mợ
dâu Bắc kỳ, ăn nói ngọt như đường phèn, dịu dàng khoai thai như thiên
nga, thêm cái tài...chửi như hát di truyền. Thế là cái mộng ”dâu rể phải
là Bắc kỳ” của bố cháu bị nước sông Cửu Long vùng Nam bộ cuốn trôi tiêu
tùng. Bố cháu bây giờ cũng rành ”sáu câu” về Nam kỳ lắm, ông bảo người ta
nói rằng:
- ”Tính tình gái Nam kỳ giống như mưa Sài Gòn: đỏng đảnh nhưng mau
quên; tính tình gái Bắc kỳ giống như mưa Hà Nội: âm ỉ và dai dẳng”.
Lợi dụng lúc ông đang vui vẻ, cháu bèn phụ họa :
- Bố biết không, người ta cũng bảo : ”Ở Sài Gòn nhiều em sinh viên
giống như ca ve; Ở Hà Nội nhiều em ca ve giống như sinh viên”, đúng không
bố ?
Bố cháu quắc mắt : ”Sao dám ăn nói lăng nhăng thế hả ?”.
Cháu chuồn nhanh kẻo ông nổi giận. Thôi thì đến nước này rồi, cúi xin các
cụ cũng rộng lòng bỏ qua cho cháu nếu có gì gọi là thiên vị, bởi vì con
gái Nam kỳ bây giờ đã là ”cây nhà lá vườn” của cháu, nên cháu đành phải
”ta về ta tắm ao ta”, ôm lấy cái ao Nam kỳ, ôm cứng cái cây sầu riêng Nam
bộ cho phải đạo ”tình Bắc duyên Nam”, nếu không cháu phải ôm thùng mì gói
suốt đời. Mong sao các cụ đọc xong rồi bỏ qua, cứ coi như một chuyện tầm
phào, bởi vì cháu đã liều mình như mấy mợ Hà Nội làm con chim đa đa,
không lấy vợ gần mà lấy vợ xa, xa tuốt luốt tận cái xứ Nam kỳ với giòng
sông 9 cửa.
|