Ông già ngồi bươi đống rác
Thành
phố Hồ Chí Minh quang vinh vẫn còn rất nhiều rác. Hồi thời trước, Sàigòn đã
có nhiều rác, nhưng so với bây giờ thì…thua xa. Rác bây giờ chẳng những nhiều
hơn mà còn…rải rác hơn. Điều này chẳng có gì khó hiểu hết. Bởi vì, trong chế
độ ưu việt xã hội chủ nghĩa, cái gì của ta cũng đều hơn của lũ chúng nó cả:
rác của chúng nó là rác tư bản, rác ngụy, còn rác của ta là rác…nhân dân, do
nhân dân, từ nhân dân mà ra. Có chính nghĩa, hơn là lẽ tất nhiên!
Vậy, ở
một đống rác khá lớn nằm trên vỉa hè một con đừơng khá rộng trong thành phố,
có một ông già ngồi ung dung như đang ngồi ở một nơi sạch sẽ! Ông già đó tuổi
cỡ ngoài tám mươi, có chòm râu bạc giống râu bác Hồ. Ổng đội mũ tai bèo, mặc
bộ đồ bà ba đen, mang dép cao su đúc. Ổng ngồi trên một ghế bằng nhựa nhỏ,
thấp, loại ghế ngồi cho trẻ con. Ổng cầm cây gậy trúc dài bươi bươi rác, mắt
nhìn châm chú chỗ đang bươi, mặc cho đàn ruồi bay lên đáp xuống như giành rác
với ổng! Lâu lâu, ổng nói một mình: « Nó nằm lẩn đâu đây hè! Mẹ bà nó!. »
Đường
này lúc nào cũng đông ken. Xe đạp, xe gắn máy, xe hơi…hai luồng chen nhau
chạy, giành mặt đường mà chạy, lòn lách lấn ép, bóp kèn inh ỏi. Chạy đầy
đường như vậy mà chẳng ai nhìn thấy ở trên đỉnh đống rác cao nhòng đó có một
ông già…Cho đến người đi bộ trên vỉa hè cũng chẳng thấy ai để ý đến ổng hết!
Hơn hai chục năm sống quen với quá nhiều nghịch lý, con người ta không còn
nhạy cảm trước những sự bất bình thường. Bởi vì cứ nhìn riết rồi quen con
mắt, nên không thấy chướng, cứ nghe riết rồi quen lỗ tai nên không thấy ồn,
cứ hửi riết rồi quen lỗ mũi nên không thấy hôi. Đó là một quy luật. Tiếp theo
đó là một quá trình đi xuống dốc của con người, vừa nhanh vừa gọn, bởi vì nó
dễ ợt hà!
Ông
già lâu lâu ngừng bươi rác, móc túi lấy bọc ni-long thuốc rồi chậm rãi vấn
hút. Điếu thuốc của ổng to bằng ngón tay cái, nên mỗi lần ổng nhả khói là
thấy mù mịt, làm như đống rác đang ngún cháy vậy!
Trong
khi ổng hút thuốc, ổng không bươi rác. Làm như hút thuốc là qua giai đoạn ổng
nghỉ xả hơi! Ổng xoay người ra nhìn thiên hạ chạy loạn dưới đường giống như
ổng đang ngồi xem kịch. Một lúc sau ổng nói một mình: « Thiệt…không giống ai
hết!. » Mà thiệt! Người ta chạy đi đâu mà lúc nào cũng thấy chạy đầy đường.
Người nào cũng hối hả. Người nào cũng bóp kèn. Kẹt không kẹt gì cũng thấy bóp
kèn! Làm như nếu không bóp kèn thì xe sẽ…không chạy vậy! Còn luật lệ giao
thông thì hầu như không có. Mạnh ai nấy chạy. Tay
mặt tay trái gì cũng…như nhau. Đàn ông đàn bà gì cũng chen lấn lòn ép…như
nhau. Chẳng ai nhường ai hết. Đàn ông con trai có người ở trần bận quần
xà-lỏn, có người lại mặc quần áo gin, bên trong có sơ-mi và áo gi-lê giống
như đang ở xứ lạnh! Còn đàn bà con gái thì phần đông ăn mặc không để…hở một
chỗ nào hết. Áo pô-lô ngắn tay, quần dài, găng tay cao tới…nách, đội kết loại
đấu thủ dã cầu, mang kiến đen, bịt mặt bằng chéo vải thêu bông hoa hay có ren
giống đàn bà á-rập! Nếu có mặc áo dài thì cũng mang găng tay ngắn, rồi đội
kết, rồi kiến đen, rồi bịt mặt! Thành ra không nhìn ra được ai là ai hết!
Hút
tàn điếu thuốc, ông già lại quay về đống rác, châm chỉ bươi. Một lúc lại nói:
« Mẹ bà nó! Tao bươi riết rồi cũng ra. Làm gì rồi cũng thấy!. »
Một cô
gái nhỏ xách tới xô rác đổ xuống làm lũ ruồi lúc nhúc bay lên, thấy ông già
ngồi đó, cô hỏi:
- Bộ
ông không sợ hôi sao mà ngồi đó vậy?
Ông
già cười mũi:
- Thời
bây giờ, ở đâu mà không hôi không thúi, hả? Nó tràn đồng thì ngồi ở đâu cũng
vậy thôi.
Cô gái
lại hỏi:
- Thấy
ông bươi bươi. Bộ ông mất cái gì hả?
Ông
già ngừng tay, hỏi lại:
- Mất
hả? Mất cái gì? Còn khỉ gì đâu mà mất!
- Vậy
chớ ông bươi rác làm gì? Rác bây giờ đâu còn có gì đâu mà lượm.
Ông
già cầm gậy trúc gõ gõ vào đống rác làm lũ ruồi hốt hoảng bay lên vù vù. Ổng
hạ giọng:
- Tao
bươi rác để kiếm mấy thằng Việt Cộng mà hồi đó tao nuôi tao giấu trong nhà.
Có vẻ
thấy ông già…khùng quá nên cô gái bỏ đi, vừa đi vừa nói:
- Họ
là con người chớ bộ chuột bọ gì đâu mà ông tìm trong đống rác!
Ông
già nhìn theo, nói lớn:
- Mà
tao có nói tụi nó là con người đâu?
Tiếng
của ông bị chìm lấp trong tiếng ồn hỗn tạp của đường phố, nên chẳng gợi được
sự chú ý của ai hết. Ổng nhìn quanh, thở dài, rồi tiếp tục bươi…
Một
thanh niên đang đi trên vỉa hè bỗng tấp vô đống rác vạch quần định đứng tiểu,
một tay chống nạnh, trên môi phì phà điếu thuốc. Ông già nói lớn:
- Coi
chừng! Nó phóng lên nó cắn sứt à!
Gã
giật mình, vội vã buông quần bước đi như chạy. Vừa đi vừa nhìn lại, nét mặt
còn đầy sợ hãi! Ông già không nhìn theo, cũng không cười. Làm như điều ông
nói là điều có thật chớ không phải đùa. Cho nên nghe ổng nói tiếp:
- Cái
lũ khốn nạn này có thứ gì mà tụi nó không đớp!
Ổng
nói mà đầu gậy vẫn không ngừng bươi. Bầy ruồi nhặng vẫn bay lên đáp xuống,
đáp xuống bay lên, lúc nha lúc nhúc…
Gần
trưa, một người đàn bà đứng tuổi từ trong hẻm gần đó bước ra đi lại đống rác,
thưa:
- Mời
ông Hai về ăn cơm.
Ông già
nói ‘ờ’ rồi chống gậy đứng lên đi. Người đàn bà cúi lấy cái ghế nhỏ, xách đi
theo phía sau ông, im lặng. Cả hai đi lần vào hẻm.
Con
hẻm mới vào thấy rộng thấy thẳng, hai bên có phố lầu hai ba từng kiến trúc
hiện đại, từng nào cũng thấy có máy lạnh lòi ra coi rất…văn minh! Hai dải phố
lầu này kéo dài vào hẻm độ ba bốn mươi thước.Sau đó là một khúc quanh thẳng
góc, rồi con hẻm chỉ còn lại không tới hai thước bề ngang, chạy quanh co rồng
rắn vào tuốt bên trong tiếp nối với những con hẻm nhỏ khác không biết từ đâu
tới mà cũng thấy…rồng rắn quanh co! Ở đây, nhà cửa lụp xụp hẹp té, khác hẳn
với mặt tiền đồ sộ lộng lẫy. Đó là một thế giới khác, một thế giới nghèo khó
núp sau cái thế giới phồn vinh bên ngoài. Người ta không thể nghĩ rằng nó nằm
ngay trong lòng thành phố, cái thành phố mang tên Người từ hơn hai mươi năm…
Ông
già và người đàn bà bước vào một căn nhà nhỏ hẹp của khu hẻm rồng rắn. Ông
già nói:
- Tao
bươi hoài mà chưa gặp thằng nào hết.
Một
người đàn ông trong nhà nói cho lấy có:
- Vậy
hả ông Hai?
- Tụi
nó chui rúc lì lắm. Mẹ bà nó! Hồi đó mà tao biết như vầy, tụi nó có chung vô
quần trốn, tao cũng cởi quần tao giũ cho chết cha tụi nó hết!
…Người
đàn ông trong nhà là cháu của ông già bươi rác, kêu ổng bằng ông chú, còn
người đàn bà là vợ hắn. Hai vợ chồng đã trộng tuổi nhưng chưa có con. Họ lảnh
may gia công quần áo cho một công ty may mặc, nên trong nhà lúc nào cũng nghe
tiếng máy may chạy xành xạch suốt ngày. Họ ngủ trên cái gác lửng nhỏ bằng hai
chiếc chiếu, còn ông già thì có cái ghế bố kê trong góc nhà. Nhà nhỏ xíu nên chỉ
có một bóng đèn điện treo ở giữa.
Hai vợ chồng người cháu đem người ông
về nuôi trong nhà từ ngày ổng ra tù cách đây hơn bảy năm…
Theo lời kể lại của người cháu thì
“ông chú” ngày xưa là một nhà doanh thương - đại doanh thương - Ổng độc quyền
nhập cảng vỏ ruột xe gắn máy, xe hơi, xe máy cày. Ổng có
mấy kho hàng lớn ở Khánh Hội, một văn phòng ba từng lầu ở Chợ Cũ, một vi-la
to ở đường Phan Thanh Giản và một vi-la vừa vừa nằm khuất trên một đồi thông
ở Đà Lạt. Vợ và hai con ổng đều ở bên Pháp để làm một “đầu cầu” bên đó. Còn
bên này ổng có một bà nhỏ lo về giao tế, xã hội và nhân viên. Lâu lâu, ổng
bay qua Âu Châu thăm vợ con và làm việc với các hãng chánh ở bên đó.
Ổng nhiều thế lực lắm. Người cháu
nói:”Hồi đó, tôi đang làm thợ may cho nhà may X thì bị động viên. Vậy mà ổng kéo tôi ra cái rẹt! Có điều làm tôi không
hiểu là ổng như vậy mà trong nhà ổng nuôi Việt Cộng không. Ngay như cái nhà
trên Đà Lạt mà ổng dùng cho mấy ông lớn mượn, từ anh quản gia đến chị bếp đến
mấy người làm vườn đều là cán bộ Việt cộng ráo. Ổng nuôi họ như vậy cho đến
năm 1973 họ mới lần lượt rút đi …”.
Hồi tháng tư 1975, ổng không di tản.
Còn nói: ”Cách mạng chớ bộ ăn
cướp giết người đâu mà sợ!”. Sau đó mấy người ổng nuôi có về thăm, ổng cũng
đãi đằng hậu hỉ. Vậy mà khi cách mạng “đánh tư sản mại bản”, ổng cũng bị
“đánh” tơi bời, tài sản bị tịch thâu hết còn bị đi tù cải tạo nữa. Vợ lớn của
ổng chết ở bên Pháp, bà vợ nhỏ đi chui rồi mất tích ở biển Đông. Còn hai đứa
con, sau này có người quen từ Paris về cho biết, đã phung phí hết tiền của mà
ổng đã để cho họ bên đó rồi dọn nhà đi mất. Thành ra đi thăm nuôi ổng chỉ còn
có vợ chồng người cháu thợ may…
Khi ông chú được thả ra khỏi tù -
nghĩa là Nhà Nước xét thấy ổng đã hoàn toàn được cải tạo - ổng đã trở thành
một người khác: một người mất trí! Người cháu nói: “Hồi đem ổng về ở với tụi tôi, tôi cũng ngại. Sợ ổng
chê. Nhưng rồi ổng vẩn ở tự nhiên, không phàn nàn gì hết, tụi tôi cũng mừng.
Rồi lo không biết chịu đựng ổng nổi không. Nhưng rồi thấy ổng không có điên
loạn như những người điên khác nên tụi tôi cũng yên tâm. Ổng không nói gì
hết, tối ngày bắc ghế ngồi dưới mái hiên hút thuốc đọc sách hoặc ngồi
cả giờ nhìn đường hẻm như người ta châm chú coi ti-vi! Vậy mà lâu lâu ổng
cũng nói nhiều câu làm mình ngạc nhiên tưởng như ổng là người bình thường.
Khi mình thử hỏi tiếp, khơi lại thời cũ thì ổng lại ngẩn ngơ. Thấy tội
nghiệp! Thiệt ra, người ta chỉ thấy ổng điên là khi nào ổng đi bươi đống rác,
cứ hai ba hôm là ổng đi bươi…”
Và như vậy, “ông Đại Doanh Thương” đó
bây giờ ngồi bươi đống rác giống như ổng bươi lại dĩ vãng của ổng, một dĩ
vãng mà rác rến vun đầy. Ổng đâu biết rằng, đối với Nhà Nước cách mạng, ổng
cũng chỉ là một thứ rác rến mà Nhà Nước đã vứt bỏ trên lề xã hội, không hơn
không kém …
TIỂU TỬ
|

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét