Thiền, trị được bệnh. Tại sao?
(TG&DT) - Tâm
cũng là nguyên nhân chính đem đến cho mỗi cá nhân niềm hỷ lạc hạnh
phúc. Và một người có nhiều hạnh phúc thì người đó ít bệnh tật. Trước
lúc trả lời câu hỏi của đề bài nêu trên, chúng ta nên tìm hiểu thế nào
là hạnh phúc, để từ đó sẽ thấy Thiền đóng vai trò như là một thứ thuốc
trị nhiều bệnh mà khoa học đã khám phá.
Kính
thưa độc giả, bài trước đây “Thiền, Sức khỏe và Những lợi ích thiết
thực”, tôi trình bày nhiều bằng chứng mà y giới và khoa học gia của các
nước tân tiến đã thí nghiệm và cho thấy Thiền Phật Giáo có thể “Làm cho
con người đẹp hơn, thông minh hơn, mạnh khỏe hơn, chống bệnh tật và lão
hóa”.
Bài này sẽ trình bày tại sao con người không uống “thuốc tiên” không dùng các thức ăn trường sanh bất tử,
nếu có, mà chỉ ngồi yên tĩnh mắt nhắm lim nhim ngày hai lần tổng cọng
vài chục phút, mà có thể trị được bệnh và có được các lợi ích thiết thực
khác?
Hơn
hai ngàn năm qua Ngài Cồ Đàm đã tuyên thuyết “Vạn pháp duy tâm tạo”.
Tình trạng căng thẳng (stress) do tâm làm cho chất hóa học cortisol xuất
hiện, các tuyến nội tiết trong cơ thể sẽ tiết ra những kích thích tố để
thay đổi môi trường và chức năng làm ảnh hưởng đến các bộ phận trong cơ
thể, vì vậy mà có thể dẫn đến các bệnh như tim mạch, huyết áp và dạ dày
cùng một số bộ phận khác (1).
THE STRESS REACTION. When stress occurs, the sympathetic nervous system is triggered.
Norepinephrine is released by nerves, and
epinephrine is secreted by the adrenal glands. By activating receptors
in blood vessels and other structures, these substances ready the heart
and working muscles for action.
Acetylcholine
is released in the parasympathetic nervous system, producing calming
effects. The digestive tract is stimulated to digest a meal, the heart
rate slows, and the pupils of the eyes become smaller. The
neuroendocrine system also maintains the body’s normal internal
functioning. Corticotrophinreleasing hormone (CRH), a peptide formed by
chains of amino acids, is released from the hypothalamus, a collection
of cells at the base of the brain that acts as a control center for the
neuroendocrine system.
CRH
travels to the pituitary gland, where it triggers the release of
adrenocorticotropic hormone (ACTH). ACTH travels in the blood to the
adrenal glands, where it stimulates the release of cortisol.
Tâm
cũng là nguyên nhân chính đem đến cho mỗi cá nhân niềm hỷ lạc hạnh
phúc. Và một người có nhiều hạnh phúc thì người đó ít bệnh tật. Trước
lúc trả lời câu hỏi của đề bài, nêu trên, chúng ta nên tìm hiểu thế nào
là hạnh phúc, để từ đó sẽ thấy Thiền đóng vai trò như là một thứ thuốc
trị nhiều bệnh mà khoa học đã khám phá.
1. Hạnh phúc là gì, ở đâu?
Định nghĩa: “Hạnh phúc là niềm vui có được trong cuộc sống”(2)
Nhiều
cuộc nghiên cứu khoa học cho thấy hạnh phúc và khổ đau là hai hướng tác
dụng đối nghịch. Hạnh phúc làm cho con người gia tăng sức khỏe và tuổi
thọ, thấy đời đáng sống và đóng góp nhiều cho thành công cùng gia tăng
hoạt động có ý nghĩa. Còn khổ đau thì ngược lại, gây nên bệnh tật, chán
đời và thất bại.
* Cảm xúc tích cực như thương yêu (mà nhà Phật gọi là “Từ nhãn thị chúng sanh” nghĩa là nhìn tất cả chúng sanh bằng cặp mắt thương mến).
* Luôn luôn cảm thấy vui vẻ, yêu đời, thỏa mãn với cuộc sống của chính mình.
* Ít lo âu, ít giận hờn.
Các cảm xúc nầy có thể phân thành sáu loại mà giáo sư Paul Ekman (4) đề nghị:
PAUL EKMAN is a professor of psychology
Hình do giáo sư Ekman và đồng nghiệp trong “Manual for facial action coding system”; Consulting Psychologists Press, 1978
- giận hờn,
- ngạc nhiên,
- khinh và ghê tởm
- buồn rầu,
- hạnh phúc,
- sợ hãi,
Qua
đó, chúng ta có thể chia cảm xúc thành hai nhóm: Nhóm hạnh phúc và nhóm
khổ đau. Các cảm xúc tiêu cực như giận hờn, ngạc nhiên, khinh khi, buồn
chán và sợ hãi sẽ góp phần làm thương tổn sức khỏe.
Khoa
học cho biết niềm hạnh phúc nằm ở bên trái thùy nảo phía trước, và
Thiền giúp cho vùng nầy được phát triển để gia tăng hạnh phúc và giữ cho
hạnh phúc được lâu bền. Ngược lại, vùng tương ứng bên phải của não làm
gia tăng hoạt động khổ đau như giận hờn, ghê tởm, buồn rầu…
Vỏ não trước trán bên trái (màu đỏ) gia tăng hoạt động hạnh phúc
Vỏ não trước trán bên phải (màu xanh) gia tăng hoạt động khổ đau
Trong cuốn “Hạnh phúc đích thực" (Authentic Happiness), tiến sĩ
Martin
E.P. Seligman, (5) Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tâm lý Tích cực
(Positive Psychology Center) thuộc viện Đại học Pennysylvania, phân biệt
các loại hạnh phúc lớn nhỏ khác nhau và từ đó có thể tìm ra phương thức
làm cho hạnh phúc được lâu bền như sau:
*
Sự vui thích tích cực từ những sinh hoạt nhỏ của cá nhân như thưởng
thức ăn miếng bánh ngon, uống tách trà thơm, nhìn trời qua khung cửa.
* Niềm vui như được nghỉ để đi chơi với người yêu.
* Đam mê một kế hoạch hấp dẫn.
* Thích thú và yêu thương những gì mình đang có...
Để cụ thể và dễ hiểu, chúng ta nên quan sát hình mẫu bánh dưới đây do một giáo sư khác đề nghị.
* Di truyền (Genetics).
* Tập luyện.
* Môi trường sống.
Như thế, hạnh phúc được cấu tạo như sau:
HP= DT + T L+ MT
(Hạnh phúc=Di truyền+tập luyện+Môi trường)
Trong
sách “Làm thế nào để đạt được hạnh phúc đích thực” (The How of
Happiness: A practical approach to getting the life you want), bà Sonja
dùng hình ảnh chiếc bánh như trên để mô tả xuất xứ của nguồn hạnh phúc.
Theo đó, hạnh phúc có được do di truyền 50%, sự cố gắng của từng cá nhân
(tập luyện) chiếm đến 40% và hoàn cảnh (môi trường) chỉ chiếm 10% mà
thôi.
Trở
lại sáu cảm xúc mà chúng ta thấy ở trên, nếu muốn có thêm hạnh phúc
ngoài yếu tố di truyền, chúng ta nên nhìn đời bằng khía cạnh tích cực,
luôn luôn an lạc vui vẻ trong cuộc sống. Nói cách khác tâm luôn luôn yêu
đời, an vui tự tại, không dính mắc hay “tâm Thiền” như bài thơ sau đây:
“Sống không giận, không hờn, không oán trách
Sống mỉm cười, với thử thách chông gai
Sống vươn lên, theo kịp ánh ban mai
Sống chan hòa, với những người chung sống
Sống là động, nhưng lòng luôn bất động
Sống là thương, nhưng lòng chẳng vấn vương
Sống yên vui, danh lợi mãi coi thường
Tâm bất biến, giữa dòng đời vạn biến.”
hoặc
“Ta từ sinh tử về chơi
Ngồi trên chóp đỉnh mỉm cười với trăng”.
Làm
việc để nuôi sống gia đình và phát triển đất nước. Nhưng với tâm thiền,
công việc có thể hoàn thiện nhanh hơn và tạo được một không khí thân
thiện với những người xung quanh.
Hạnh
phúc và khổ đau có thể di truyền, nên chúng ta có thể nói rằng, tánh
tình và lối sống vui buồn của bà mẹ, nhất là trong thời kỳ thai nghén,
rất ảnh hưởng đến cuộc đời của đứa bé về nhan sắc, tính khí và thông
minh của người con.
Ngày
nay, các nhà thần kinh học đã tìm ra vùng làm phát sinh niềm sung mãn
trong bộ não cùng các mạch thần kinh chuyển vận niềm vui này. Do đó, sự
thực hành làm phát sinh hỹ lạc trở thành dễ dàng và cụ thể hơn để mang
lại nhiều ích lợi cho người thực hành, nhất là làm gia tăng định tâm
trong khi làm việc nuôi sống gia đình và đóng góp vào phát triển kinh tế
xã hội.
Theo
bác sĩ Gregory Fricchione, M.D. Giám đốc trung tâm Y Khoa về Thân/Tâm,
lúc hành thiền thì trạng thái sinh lý trong cơ thể được thay đổi, các
gene sẽ hoạt động ngược chiều với sự căng thẳng. Do đó, bạch huyết cầu
được gia tăng, hệ thống miễn nhiễm mạnh hơn và có khả năng chống lại các
vi khuẩn và vi trùng làm hại cơ thể và các bệnh tật bắt đầu thuyên giảm
(Theo Nguyệt san Tâm, Thái độ và Trí nhớ, Mind, Mood and Memory, tháng
9. 2008).
Y
học cũng cho thấy, Thiền làm cho vùng võ nảo phía trước bên trái gia
tăng niềm vui, tâm hồn mạnh mẽ. Lúc đạt được trạng thái nầy thì người đó
sẽ có các hiện tượng tâm sinh lý:
* Tăng hạnh phúc, tăng bạch huyết cầu, tăng hệ thống miển nhiễm và sức khỏe.
* Tánh tình tích cực và hoạt bát lanh lợi trong việc giải quyết các khó khăn.
* Chất hóa học cortisol được giảm, huyết áp thấp, nhịp đập của tim chậm.
*Phục hồi nhanh sau những tai nạn, nếu có.
2.Thiền thay đổi cấu trúc con người, vì gene thay đổi
Cuộc
thí nghiệm trên hai nhóm. Nhóm A có 19 người đã hành thiền trong nhiều
năm. Nhóm B cũng 19 người chưa hề hành Thiền. Bắt đầu là khám nghiệm để
biết sự biểu hiện gene (gene expression) của cả hai nhóm. Kế tiếp là
hướng dẫn nhóm B (chưa bao giờ thực hành thiền) thiền hành trong 8 tuần
lễ để xem sự biểu hiện của gene như thế nào.
Kết quả, nhóm B mới thực hành thiền chỉ 8 tuần lễ nhưng gene cũng biểu hiện tốt đẹp như nhóm A; hành thiền lâu năm.
Gene
biểu hiện một tiến trình cho thấy sự di truyền từ cha mẹ đến con như
mắt xanh, tóc đen, da trắng…được chứa đựng trong một phân tử dài gọi là
DNA từ cha mẹ đến con cháu.
Thiền
có khả năng làm cho gene hoạt động theo chiều tích cực khi DNA chuyển
qua RNA và chuyển thành chất đạm. Chất đạm trong tế bào được hợp thành
bởi một hổn hợp 20 chất acit amino (amino acids), khác nhau có hình của
một quả banh bằng dây quấn lại. Tất cả các bộ phận trong người chúng ta
như tim, gan, bao tử, lá lách, ruột, phổi, xương, máu, tế bào thần kinh
được tạo bởi các chất đạm này.
Những
cuộc nghiên cứu trẻ em sanh đôi cho thấy mặc dù gene quyết định sự di
truyền nơi con người, nhưng con người cũng có khả năng làm cho một số
gene tăng hay giảm hoạt động theo chiều hướng tích cực mà chúng ta
muốn.
Và
cuộc nghiên cứu cho thấy thực hành thiền làm cho sự biểu hiện của một
số gene trở thành tốt hơn. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn, dưới đây, việc khám
phá thiền làm thay đổi sự hoạt động của gene; gene là nền tảng căn bản
của đời sống chúng ta. Nếu gene phát triển tốt thì toàn thể sự sống của
chúng ta, từ thể chất đến sự hoạt động của các tế bào và các cảm xúc của
chúng ta, sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt.
Kết
quả là chúng ta sẽ có hạnh phúc tăng, bệnh giảm, khỏe mạnh hơn, linh
hoạt hơn, thông minh hơn, trí nhớ tốt hơn và trường thọ hơn.
Nguyệt san sức khỏe “Mind, Mood and Memory”, số tháng 9 năm 2008 ghi lại lời phát biểu của bác sĩ Fricchione, giám đốc trung tâm Y Khoa Thân/Tâm như sau:
"Cuộc
thí nghiệm cho thấy, thực hành thiền làm thay đổi sinh lý trong cơ thể
như huyết áp hạ, thở giảm và tim đập chậm hơn. Một số gene thay đổi
ngược chiều với lúc bị căng thẳng, và sự hoạt động của gene trong hai
nhóm mới và cũ giống nhau.
3. Thiền giúp trẻ ra, già muộn, sống lâu - sống khỏe:
Michael F. Roizen & Mehmet C. Oz
Bác sĩ Michael F. Roizen và bác sĩ Mehmet C. Oz, trong cuốn “Cẫm nang hướng dẫn cách trẻ dai già chậm”
(YOU: Staying Young: The Owner's Manual for Extending Your Warranty, by
Michael F. Roizen, Mehmet Oz, 2007), cho biết tuổi già liên hệ đến
nhiều thứ trong cơ thể chúng ta:
Trong
tế bào có những sợi nhiễm sắc thể (chromosome) như những sợi dây quấn
mà cuối đầu dây có các phần nhỏ gọi là telomeres, tương tự như dây buộc
giày có hai đầu nhỏ cứng để xỏ vào lỗ. Mỗi lần tế bào sinh sản (bằng
cách tách đôi) thì các telomeres ngắn đi. Telomeres có nhiệm vụ làm cho
tế bào sinh sản, khi telomeres ngắn dần thì khả năng sinh sản cũng từ từ
biến mất. Khi tế bào không thể sinh sản để giúp cơ thể thì nó tự hủy
(apoptosis).
*Apoptosis increasing from normal cells (top) to apoptotic ones (bottom)
Nhiều
tế bào chết thì cơ thể càng già yếu dần. Cuộc nghiên cứu chia hai nhóm
người có telomeres dài và ngắn. Người có telomeres dài thì sống 5 năm
lâu hơn người có ngắn telomeres.
*Diagram
of a replicated and condensed metaphase eukaryotic chromosome. (1)
Chromatid – one of the two identical parts of the chromosome after S
phase. (2) Centromere – the point where the two chromatids touch, and
where the microtubules attach. (3) Short arm. (4) Long foot.
Chúng
ta cần biết thêm là các telomeres có nhiệm vụ phòng ngừa các nhiễm sắc
thể trong các tế bào kết lại với nhau hoặc là thay đổi cấu trúc. Nếu
tình trạng thay đổi bất thường xảy ra thì có thể đưa đến ung thư.
Bác
sĩ Roizen trong sách trên báo động:"Những người bị căng thẳng thì có
50% tolemeres ngắn hơn những người ít bị căng thẳng. Thiền làm giảm căng
thẳng nên cũng làm giảm nguy cơ tolemeres bị ngắn quá sớm do căng thẳng
gây ra."
Telomeres: ngắn dần lúc tế bào sinh thêm
4. Bệnh tăng, già mau, chết sớm vì căng thẳng
Khi
căng thẳng xuất hiện, hệ thần kinh giao cảm bị kích động, các tế bào
thần kinh tiết ra chất norepinephrine và nang thượng thận tiết ra chất
epinephrine hay adrenaline.
*Epinephrine ampule, 1 mg (Suprarenin).
'Adrenaline
làm cho tim và bắp thịt gia tăng hoạt động. Hệ đối giao cảm vận hành
làm tiết ra chất acetylcholine để tái tạo sự quân bình cho cơ thể. Hệ
thần kinh nội tiết cũng sản xuất chất CRH (corticotrophin-releasing
hormone) để góp phần vào việc duy trì sự thăng bằng.
_
__,_._,___
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét