Cuộc Chiến Giành Giật Châu Á
Giữa Mỹ Và Trung Quốc
Giữa Mỹ Và Trung Quốc
Ngọc
Trí
Sẽ
là rất lịch sự
nếu dùng những
từ đại loại
“đối tác” hay
“đối thủ” mà
không phải là
kẻ thù để chỉ
mối quan hệ
hiện tại giữa
Mỹ và Trung
Quốc. Và nếu
xem Trung Quốc
là kẻ thù, Mỹ
đang đối mặt
với một kẻ thù
hắc ám và kỳ
lạ chưa từng
có trong lịch
sử cổ kim, một
kẻ thù không
hoàn toàn nằm
ở chiến tuyến
đối lập thật
sự như với
Liên Xô trước
đây mà lại
“bị” gắn kết
bởi những lợi
ích song
phương gần như
không thể tách
rời. Điều đó
cũng đúng với
phía Trung
Quốc.
Làm
thế nào để
“diệt” nhau
trong bối cảnh
quan hệ phức
tạp như vậy?
Kỳ 1: Lịch sử một chuyện
tình
Từ kẻ
thù không đội
trời chung
Lịch
sử đã cho thấy
một khi lợi
ích chính trị
bị đe dọa thật
sự, người ta
vẫn có thể hy
sinh quyền lợi
kinh tế và sẵn
sàng dùng nắm
đấm phân biệt
hơn thua.
Trước Thế
chiến thứ
nhất, Anh và
Đức là hai đối
tác thương mại
chính của
nhau. Tuy
nhiên, điều đó
vẫn khiến giới
chính trị chóp
bu London xem
sức mạnh đang
lên của Đức là
mối đe dọa cho
vị trí đế quốc
thực dân của
họ cũng như sự
ổn định chính
trị châu Âu
nói riêng về
lâu dài.
Và dù
quan hệ mậu
dịch gắn kết
với Anh vẫn
tăng đều, Đức
vẫn đi đến kết
luận rằng Anh
đang tìm cách
khống chế, cố
tình ngăn cản
và “trù dập”
sự lớn mạnh
của họ. Thế là
bất chấp quyền
lợi kinh tế
song phương,
quan hệ chính
trị hai nước
xấu dần rồi
cuối cùng dẫn
đến chiến
tranh. Trường
hợp Anh - Đức
đã cho thấy sự
lệ thuộc kinh
tế song phương
chưa chắc là
yếu tố giúp
củng cố tình
bạn thêm bền
vững mà thậm
chí chính nó
lại là nguyên
nhân chủ yếu
cho những bất
ổn, mâu thuẫn
và xung đột.
Nixon trong chuyến công du lịch sử đến Trung
Quốc
Điều
này đang xảy
ra trong mối
quan hệ Mỹ và
Trung Quốc,
khi mà Trung
Quốc không chỉ
ngoi lên như
một cường quốc
kinh tế mà còn
là một sức
mạnh quân sự
đe dọa quyền
lợi Mỹ - đúng
như dự báo của
Tổng thống
Theodore
Roosevelt
(nhiệm kỳ
1901-1909)
cách đây hơn
100 năm, khi
cho rằng:
“Lịch sử tương
lai của chúng
ta sẽ được
quyết định bởi
vị trí của
chúng ta ở
Thái Bình
Dương đối mặt
với Trung Quốc
hơn là vị trí
của chúng ta ở
Đại Tây Dương
trực diện với
châu Âu”.
Cho
nên, điều mà
cựu Ngoại
trưởng Mỹ
Henry
Kissinger, vốn
là người thân
Trung Quốc,
một “tình nhân
vĩ đại” trong
lịch sử quan
hệ Washington
- Bắc Kinh,
kết luận trong
quyển On China
(phát hành
2011) của mình
- về việc nên
tạo một “cộng
đồng Thái Bình
Dương” trong
đó Mỹ, Trung
Quốc và tất cả
các nước trong
khu vực đều
cùng sống
chung và phát
triển trong
hòa bình - chỉ
là một ảo
tưởng phi thực
tế chính trị,
ngây ngô đến
mức ngớ ngẩn!
Trong chính
trị thế giới,
làm gì có
chuyện “ăn
cùng mâm, ngủ
cùng giường”
với những đối
thủ đang lăm
le đe dọa sức
mạnh lẫn quyền
lợi mình!
Trung
Quốc và Mỹ vốn
chẳng bao giờ
thật tâm với
nhau. Chính
kiến là một
chuyện (tư bản
và cộng sản).
Tranh giành
ảnh hưởng mới
là vấn đề
chính. Thời
Chiến tranh
lạnh, hai nước
xem nhau như
mặt trăng với
mặt trời. Năm
1954, tại Hội
nghị hòa đàm
Geneva, Ngoại
trưởng Mỹ John
Foster Dulles
đã thẳng thừng
từ chối bắt
tay người đồng
cấp Chu Ân Lai
và thậm chí ra
lệnh tất cả
thành viên Mỹ
phó hội Geneva
phải “phớt lờ
mọi lúc về sự
có mặt và tồn
tại của phái
đoàn Trung
Quốc”. Cùng
với chính sách
cô lập Trung
Quốc về mặt
ngoại giao, Mỹ
cũng thiết lập
một mạng lưới
đồng minh và
căn cứ quân sự
ở Đông Nam Á.
Đến
giữa thập niên
50 của thế kỷ
trước,
Washington đã
ký thỏa ước
Hợp tác quốc
phòng với Úc
và New Zealand
(1951),
Philippines
(1951), Nam
Hàn (1953);
thắt chặt quan
hệ với Đài
Loan (1954) và
cả cựu thù
Nhật (1951).
Mỹ còn thành
lập nhiều tổ
chức quân sự
trong đó có Tổ
chức Hiệp ước
Bắc Đại Tây
Dương (NATO)
tại Tây Âu, Tổ
chức Hiệp ước
Đông Nam Á
(SEATO;
Philippines,
Thái Lan,
Pakistan…), Tổ
chức Hiệp ước
trung tâm
(CENTO; Thổ
Nhĩ Kỳ, Iran,
Iraq,
Pakistan…).
Đến trước Thế
chiến thứ hai,
Philippines đã
trở thành căn
cứ vững mạnh
Mỹ ở Thái Bình
Dương, nối với
chuỗi đảo
thuộc quản lý
Mỹ (Guam,
Wake, Midway)…
Từ năm 1950,
Washington
cũng áp đặt
lệnh cấm vận
toàn diện đối
với Trung
Quốc…
Đến
một chuyện
tình “cưỡng
hôn”!
Có lẽ
Trung Quốc
chẳng bao giờ
có cơ hội
“ngóc đầu” lên
được nếu không
xảy ra hai yếu
tố thời cuộc,
khiến chính
sách
Washington đối
với Bắc Kinh
thay đổi 180o.
Thứ nhất, đó
là sự đe dọa
của Liên Xô,
và thứ hai là
cuộc chiến
Việt Nam.
Trong bối cảnh
bế tắc của
cuộc chiến
Việt Nam và
đồng thời cần
một đối trọng
để cân bằng
quyền lực với
Liên Xô, Mỹ
bắt đầu chơi
trò “mèo mả,
gà đồng” với
Trung Quốc.
Đến đầu thập
niên 70, “bè
lũ” Kissinger
đã áp dụng một
chính sách
tiếp cận Trung
Quốc hoàn toàn
khác. Mục tiêu
của Mỹ không
còn làm suy
yếu mà ngược
lại phải làm
cho Trung Quốc
mạnh! Cụ thể
nhất là việc
hỗ trợ cho lực
lượng Quân đội
giải phóng
nhân dân Trung
Quốc (PLA)
bằng nhiều
loại vũ khí
hiện đại, đủ
sức để Trung
Quốc đương đầu
nếu nước này
xảy ra chiến
tranh với Liên
Xô.
Henry Kissinger - một “người bạn tốt” lâu
năm của Trung
Quốc
Tuy
nhiên, trong
khi Tổng thống
Richard Nixon
và cố vấn An
ninh quốc gia
Kissinger muốn
tăng tốc kế
hoạch viện trợ
quân sự cho
Trung Quốc,
Quốc hội Mỹ
vẫn tỏ ý lo
ngại và tìm
cách ngăn
chặn, với niềm
tin rằng Bắc
Kinh là một
đối tác bất
khả tín. Tuy
nhiên, Nixon,
rồi người kế
nhiệm Gerald
Ford, vẫn
thuyết phục
được Quốc hội,
dù mức độ viện
trợ không được
như phác thảo
ban đầu. Trong
số thiết bị -
phương tiện
viện trợ cho
Trung Quốc lúc
đó, có hệ
thống bắt tín
hiệu truyền
hình vệ tinh,
10 chiếc
Boeing 707 và
hai máy tính
tốc độ cao.
Đến năm 1975,
Kissinger (lúc
này là ngoại
trưởng) còn
kêu gọi xóa
một số hạn chế
xuất khẩu được
áp dụng thời
Chiến tranh
lạnh, trong đó
có việc bán
động cơ phản
lực
Rolls-Royce
(Anh sản xuất)
cho Trung
Quốc. Song
song, Mỹ và
Trung Quốc
cũng thiết lập
các chương
trình tập
trận, huấn
luyện quân sự
và thậm chí
soạn thảo kịch
bản tác chiến…
Dù
vậy, Mỹ rất
cân nhắc chính
sách viện trợ
quân sự cho
Trung Quốc,
phần vì bản
chất của “cuộc
tình”
Washington -
Bắc Kinh thực
chất chỉ là
mối tình tạm
bợ, một cuộc
tình vì “cưỡng
hôn” mà có, vì
thời cuộc xoay
vần mà ra.
Phần nữa, Mỹ
không dám ào
ạt viện trợ
quân sự cho
Trung Quốc bởi
lo ngại Liên
Xô có khả năng
phản ứng mạnh
và chơi đòn
phủ đầu bằng
cách bất ngờ
tấn công Trung
Quốc, dẫn đến
nguy cơ một
cuộc đại chiến
thế giới lần
ba. Trong thực
tế, đã có vài
tín hiệu cho
thấy Liên Xô
sẵn sàng dập
Trung Quốc,
không phải
đánh bằng một
chiến dịch
quân sự thông
thường mà là
đập cho nát
ngướu! Hè
1969, khi xung
đột biên giới
Trung Quốc và
Liên Xô căng
thẳng, tại một
bữa ăn trưa ở
nhà hàng “Beef
and Bird” ở
trung tâm
Washington,
một viên chức
ngoại giao cấp
trung Liên Xô
đã nói với
người đồng cấp
Mỹ rằng Moscow
đã lên kế
hoạch “cực kỳ
nghiêm túc”
việc tấn công
phủ đầu vào
các cơ sở hạt
nhân Trung
Quốc.
Vài
tuần sau tại
Teheran, một
tùy viên không
quân Liên Xô
cũng nói với
một sĩ quan Mỹ
rằng, Liên Xô
“sẽ không ngần
ngại dùng vũ
khí hạt nhân
để tiêu diệt
Trung Quốc”
nếu Trung Quốc
tiếp tục quấy
rối biên giới
Liên Xô. Năm
1973, một lần
nữa, Liên Xô
lại đề cập khả
năng tấn công
các cơ sở hạt
nhân Trung
Quốc. Phản
ứng, Kissinger
- trong chuyến
kinh lý Bắc
Kinh cuối năm
1973 - nói với
Chu Ân Lai
rằng, trong
trường hợp
Moscow tuyên
chiến với
“người anh em”
Trung Quốc, Mỹ
“có thể giúp
đỡ bằng cách
cung cấp thiết
bị và các dịch
vụ khác”
(nhưng không
nêu cụ thể là
những gì),
đồng thời giúp
Trung Quốc
giảm thiểu khả
năng thiệt hại
bằng cách cung
cấp thông tin
tình báo cảnh
báo sớm. Điều
này chỉ có thể
thực hiện một
khi thiết lập
đường dây nóng
“giữa các vệ
tinh của chúng
ta để chúng
tôi có thể
thông báo cho
các bạn chỉ
trong vài
phút”…
Mỹ và Trung Quốc bắt đầu thiết lập quan hệ chính thức
ngày 1/1/1979
sau nhiều cuộc
gặp gỡ ngoại
giao suốt thập
niên 70 (trong
ảnh là Phó thủ
tướng Đặng
Tiểu Bình
trong chuyến
công du Mỹ gặp
Tổng thống
Jimmy Carter
ngày
31/1/1979)
Giữa
thập niên 70,
Mỹ bắt đầu
giảm bớt liều
lượng nhiệt
tình trong
quan hệ với
Trung Quốc.
Cuộc chiến
Việt Nam đã
ngả ngũ và mối
đe dọa hạt
nhân Liên Xô
cũng không
còn. Hơn nữa,
quan điểm nổi
trội trong
chính trường
Mỹ vẫn là sự
áp đảo của phe
chính trị
truyền thống
với chính sách
không thân
thiện với một
nước cộng sản
như Trung
Quốc. Phần
mình, Bắc Kinh
cũng chẳng
thấy vui gì
khi Washington
thắt chặt bang
giao với mình,
một mặt, vẫn
đi lại và bênh
vực Đài Loan.
Trong thực tế,
cả hai đều
nhìn thấy rõ
bản chất của
mối quan hệ:
Trung Quốc cần
dựa hơi Mỹ để
chống Liên Xô,
trong khi
Washington cần
vuốt ve Trung
Quốc để lấy nó
làm đối trọng
trong những
cuộc mặc cả
chính trị với
Moscow. Tuy
nhiên, tháng
12/1979, khi
quân đội Liên
Xô tấn công
Afghanistan,
quan hệ chiến
lược
Washington -
Bắc Kinh lại
được đẩy lên
một “tầm cao”
mới.
Trong
chuyến công du
Bắc Kinh tháng
1/1980, Bộ
trưởng Quốc
phòng Mỹ
Harold Brown
đề xuất loạt
trao đổi giữa
các viên chức
quốc phòng cấp
cao hai nước,
ở một mức độ
“chưa từng có
trước nay”.
Tổng thống
Jimmy Carter
tuyên bố ông
sẽ chuẩn y các
giấy phép xuất
khẩu cho những
mặt hàng liên
quan kỹ thuật
kép (dùng cho
dân sự lẫn
quân sự) và
lần đầu tiên
cũng chuẩn y
phi vụ bán các
hệ thống quân
sự không giết
người, như
radar, vận tải
cơ, trực thăng
và phần cứng
viễn thông.
Tuy nhiên,
Carter vẫn còn
đủ tỉnh táo và
thận trọng
không đồng ý
bán vũ khí tấn
công, bất chấp
sự bày tỏ quan
tâm từ Bắc
Kinh...
Chính
sách thân
thiện của
Washington đối
với Bắc Kinh,
dù ẩn sâu bên
trong vẫn tồn
tại nhiều nghi
kỵ và dè
chừng, đã
khiến dư luận
Mỹ thời điểm
đó bớt nhìn
Trung Quốc
bằng cặp mắt
tiêu cực.
Trong suốt
thập niên 70,
chỉ khoảng 1/3
người được hỏi
trong các cuộc
thăm dò tại Mỹ
là bày tỏ cái
nhìn tích cực
dành cho Trung
Quốc trong khi
2/3 hoặc hơn
nói chung tỏ
ra nghi ngại
Trung Quốc.
Đến thập niên
1980, những
kết quả thăm
dò bắt đầu cho
thấy ngược
lại. Trong
cuộc thăm dò
tháng 2-1989,
tỉ lệ người Mỹ
“khoái” Trung
Quốc đã lên
đến 73%!
Các
cây bút nghiên
cứu chính trị
và giới chóp
bu quân sự
Trung Quốc
đang lên án Mỹ
việc sử dụng
nhiều “âm mưu
và thủ đoạn
tinh vi” để
thực hiện
chính sách cản
trở con đường
phát triển của
Trung Quốc, dù
đó là sự “phát
triển trong
hòa bình”. Tuy
nhiên, lịch sử
đã cho thấy
chính Mỹ từng
“hà hơi tiếp
sức” cho sự
lớn mạnh của
quân đội nước
này nói riêng
và Trung Quốc
nói chung.
Thiếu những
nền tảng ngoại
lực ban đầu
như vậy, Trung
Quốc khó có
thể đạt được
những kết quả
như hiện nay…
Kỳ 2: "Dưỡng hổ di họa"
“Thân
Trung, bài
Nga”
Lịch
sử chính trị
thế giới cho
thấy có khi,
chỉ bởi vài
quan điểm cá
nhân, thế cục
đã có thể thay
đổi. Trong
trường hợp
Trung Quốc và
Mỹ, đó là
những bộ não
như Henry
Kissinger và
sau đó là “học
trò” của ông -
Ngoại trưởng
Alexander
Haig. Trong
nội các Ronald
Reagan (kế
nhiệm Jimmy
Carter), Haig
được xem là
nhân vật luôn
ủng hộ mạnh mẽ
chính sách
thân Bắc Kinh.
Haig muốn đặt
dấu ấn riêng
trên trang sử
quan hệ Mỹ -
Trung bằng
việc thực hiện
những bước đột
phá để nâng
quan hệ hai
nước lên một
cấp độ chiến
lược mới, mà
trọng tâm của
nó là tăng tốc
việc bán vũ
khí giết người
cho Trung Quốc
cả về chất lẫn
lượng. Haig
tin rằng, chỉ
khi như vậy,
Mỹ mới có thể
cân bằng được
sức mạnh quân
sự Liên Xô.
Quan
điểm của Haig
cũng được chia
sẻ bởi một số
người trong bộ
máy quân đội
Mỹ. Bản nghiên
cứu về mối
quan hệ an
ninh chiến
lược với Trung
Quốc năm 1981
của Bộ tổng
Tham mưu quân
đội Hoa Kỳ kết
luận rằng,
Trung Quốc
“đang đóng góp
đáng kể” cho
“sự cân bằng
toàn cầu”. Tuy
nhiên, một lần
nữa, Quốc hội
và một số
tướng lĩnh Lầu
Năm Góc vẫn dè
dặt việc mở
rộng cửa và
cung cấp cho
Trung Quốc
những kỹ thuật
quân sự tiên
tiến. Với
Haig, đó là
những ý kiến
“thiển cận”,
xuất phát từ
hạng người có
“tư duy bàn
giấy” và “đầu
óc hẹp hòi”…
Chủ tịch Giang Trạch Dân (và Tổng thống Bill Clinton)
trong chuyến
công du Mỹ
cuối năm 1997
(chuyến viếng
thăm đầu tiên
của một lãnh
đạo Trung Quốc
kể từ sự kiện
Thiên An Môn)
Sự
vận động liên
tục của Haig
cuối cùng cũng
có kết quả, dù
khiêm tốn. Năm
1983, Bộ
trưởng Quốc
phòng Caspar
Weinberger
tuyên bố,
trong số những
bước đi mới
được thiết kế
nhằm tăng
cường quan hệ
quân sự song
phương Mỹ -
Trung,
Washington sẽ
sẵn lòng bán
những hệ thống
“vũ khí phòng
ngự” cho Bắc
Kinh. Và trong
nửa sau thập
niên 80 của
thế kỷ trước,
Washington
cũng đồng ý
bán cho Trung
Quốc ngư lôi,
radar chiến
thuật, thiết
bị máy móc để
sản xuất vỏ
đại bác và hệ
thống điện tử
cho thiết bị
đánh chặn của
chiến đấu cơ.
Giới chức Mỹ
thậm chí còn
bày tỏ việc
sẵn lòng thảo
luận việc bán
hệ thống tên
lửa chống
tăng, hệ thống
dò âm chống
tàu ngầm, động
cơ turbine khí
cho tàu chiến
và hệ thống
tên lửa không
đối không.
Tóm
lại,
Washington đã
chuẩn bị bán
một số mặt
hàng quân sự
với số lượng
lớn cho Trung
Quốc. Sau
chuyến công du
Trung Quốc của
Weinberger năm
1983, một loạt
trao đổi qua
lại giữa giới
chức dân sự
lẫn quân sự ở
mọi cấp bậc
của hai nước
liên tục diễn
ra. Không chỉ
dự tính tổ
chức các cuộc
phối hợp tập
trận hải quân
giữa hai quân
đội, Mỹ còn
háo hức đề
xuất ý kiến
triển khai máy
bay chiến
thuật đến
những căn cứ
gần
Vladovostok;
phát triển
“những hệ
thống phòng
không và cảnh
báo sớm”, xin
được phép tiếp
liệu cho vận
tải cơ Mỹ mang
hàng hóa cung
cấp cho lực
lượng “kháng
chiến quân”
Afghanistan
trong cuộc
chiến chống
Liên Xô…
Tuy
nhiên, thời
cuộc lại thay
đổi và ảnh
hưởng của nó
là sự tái nhận
thức về các
mối quan hệ.
Giữa thập niên
80, Liên Xô
đang lún sâu
vào hỗn loạn
nội bộ, trong
làn sóng cải
tổ của Mikhail
Gorbachev.
Nhận định
rằng, Moskva
không còn là
kẻ thù và là
mối đe dọa an
ninh lớn đối
với mình, Bắc
Kinh bắt đầu
muốn cải thiện
quan hệ với
Moskva để tận
dụng quan hệ
quân sự lẫn
kinh tế. Dù
sao, hai nước
cũng từng có
những mối liên
hệ chặt chẽ
thời thập niên
50 của thế kỷ
trước. Việc
tái nhận thức
trong chiến
lược quan hệ
với Liên Xô
khiến Bắc Kinh
“tế nhị” đẩy
quan hệ với Mỹ
xuống một… tầm
thấp hơn. Thế
là thay vì hăm
hở sắm “đồ
chơi” Mỹ,
Trung Quốc đã
bỏ qua (cơ hội
ngàn vàng này)
và chỉ mua vài
thứ tượng
trưng. Những
kế hoạch hợp
tác quân sự
song phương
như nói ở trên
cũng bị bỏ xó…
con
bài cũ
Năm
1989 đã xảy ra
hai sự kiện
kinh thiên
động địa khiến
Mỹ bắt đầu
giảm dần, dù
rất chậm mối
quan hệ với
Trung Quốc.
Thứ nhất đó là
sự kiện Thiên
An Môn vào
tháng 6 và
tiếp đó là sự
kiện bức tường
Berlin sụp đổ
vào tháng 11.
Cả hai sự kiện
đều mang lại
những ảnh
hưởng sâu sắc
đối với chính
sách đối ngoại
của Mỹ lẫn
Trung Quốc.
Với Mỹ, sự tan
rã của các
nước Đông Âu
khiến điểm tựa
Liên Xô không
còn đã dẫn
Washington đến
những phác
thảo mới cho
chủ trương đối
ngoại. Có một
điều đến nay
không thể giải
thích là tại
sao dù chiến
lược cân bằng
với Liên Xô
không còn cần
thiết nhưng
Washington,
bất chấp sự
kiện Thiên An
Môn, vẫn duy
trì quan hệ
khá gần gũi
với Trung
Quốc.
Dù chỉ trích Bill Clinton về chính sách đối với Trung
Quốc nhưng
George W. Bush
cũng áp dụng
con đường
chẳng khác mấy
so với chính
phủ tiền nhiệm
(trong ảnh là
vợ chồng Tổng
thống George
W. Bush và
Ngoại trưởng
Dương Khiết
Trì tại Thế
vận hội Bắc
Kinh 2008)
Vài
tháng sau, Thứ
trưởng Ngoại
giao Mỹ
Lawrence
Eagleburger đệ
trình Quốc hội
một danh sách
những phạm vi
“sống còn” mà
Mỹ cần tiếp
tục thực hiện
trong mối quan
hệ với Bắc
Kinh.
Eagleburger
giải trình
rằng, dù Liên
Xô sụp đổ,
nhưng những
“giá trị chiến
lược” với Bắc
Kinh vẫn không
thể vì thế mà
từ bỏ. Do đó,
Bắc Kinh và
Washington cần
tiếp tục chia
sẻ nhiều mối
quan tâm mới,
qua những
chương trình
hợp tác mới,
trong bối cảnh
chính trị mới.
Theo quan điểm
Eagleburger
cũng như một
số giới chức
hoạch định
chính sách đối
ngoại Hoa Kỳ,
Washington bây
giờ cần hỗ trợ
để đưa Trung
Quốc tiếp cận
và gắn kết sâu
hơn vào các hệ
thống định chế
quốc tế. Một
cách tinh vi,
đó là cách
thuần hóa một
con cọp đang
mọc nanh.
Chính
sách này xuất
hiện ngay từ
những ngày đầu
của nhiệm kỳ
Bill Clinton.
Năm 1994,
Chính phủ Mỹ
tuyên bố
Washington sẽ
theo đuổi
chính sách
“hợp tác toàn
diện” với
Trung Quốc -
như Tổng thống
Bill Clinton
đã trình bày:
“Chúng tôi sẽ
có nhiều mối
liên hệ hơn.
Chúng tôi sẽ
giao thương
nhiều hơn.
Chúng tôi sẽ
hợp tác quốc
tế nhiều hơn”.
Nói cách khác,
Mỹ đã phát
quang dọn
đường đưa
Trung Quốc lên
vũ đài quốc
tế, với hy
vọng rằng,
Trung Quốc sẽ
có ý thức
trách nhiệm
hơn với những
nghị sự thế
giới và những
vấn đề toàn
cầu (chẳng hạn
ô nhiễm môi
trường), cũng
như sẽ hành xử
biết điều,
biết luật hơn,
với những xung
đột khu vực…
Mỹ đã tạo ra
một ảo tưởng
cho Trung Quốc
rằng, họ bây
giờ là một
cường quốc.
Đặt
Trung Quốc lên
chiếc ghế định
chế quốc tế
không chỉ buộc
Trung Quốc
phải “ăn ở”
cho ra “tư
cách người
lớn” mà cũng
là một cách để
có thể giám
sát và thậm
chí khống chế
Trung Quốc. Đó
là lý do tại
sao Mỹ dành cả
nửa sau của
thập niên 90
để vận động
đưa Trung Quốc
vào Tổ chức
Thương mại Thế
giới (WTO)…
Trong chiến
dịch tranh cử
tổng thống năm
2000, George
W. Bush chỉ
trích nội các
tiền nhiệm đã
“dung túng” và
“nuông chiều”
Trung Quốc
thái quá. Với
Bush, Trung
Quốc không thể
là “đối tác
chiến lược” mà
phải là “đối
thủ chiến
lược”. Dù vậy,
thế cờ đã được
bày, trong một
thời gian dài
như thế, làm
sao có thể gỡ
một sớm một
chiều. Cuối
cùng, dưới áp
lực của giới
doanh nghiệp
và tài phiệt
Mỹ, Bush cũng
buộc phải áp
dụng chính
sách đối với
Trung Quốc
chẳng khác
thời Bill
Clinton bao
nhiêu…
Ngoại trưởng Alexander Haig và người đồng cấp Hoàng Hoa
tại Sân bay
Bắc Kinh
(tháng 6/1981)
Tuy
nhiên, trong
lĩnh vực quân
sự, những gì
được thiết lập
trước năm 1989
đã không bao
giờ được tái
lập. Mỹ bắt
đầu nhận ra
rằng, Trung
Quốc đang từng
bước trở thành
một mối họa
đối với an
ninh và quyền
lợi Mỹ. Sự
nhận thức này
diễn ra rất
chậm. Trước
năm 1996, giới
chức quân sự
Mỹ vẫn còn
chưa quan tâm
sự phát triển
quân sự Trung
Quốc. Họ chỉ
nghĩ Trung
Quốc đang mải
mê lo làm
giàu, thế
thôi. Trong
khi đó, một sự
nhận chân toàn
bộ về thực
trạng quân sự
non kém của
mình lại đang
sôi sùng sục
tại Trung
Quốc, từ khi
họ chứng kiến
sức mạnh kinh
khủng của Mỹ
phô diễn ở
cuộc chiến
vùng vịnh
1991. Trung
Quốc bắt đầu
âm thầm tăng
tốc đầu tư
quân sự, trước
sự thờ ơ của
Mỹ.
Tất
cả chỉ thay
đổi vào năm
1996, khi Đài
Loan tổ chức
cuộc bầu cử
tổng thống dân
chủ đầu tiên.
Trung Quốc đã
gây sức ép Đài
Bắc bằng cách
triển khai dàn
tên lửa chĩa
thẳng về Đài
Loan. Lần đầu
tiên trong hơn
30 năm, Mỹ mới
nhận ra một
hiểm họa chiến
tranh thật sự
tại châu Á đến
từ Trung Quốc.
Lập tức sau
đó, tình báo
Mỹ bắt đầu
theo dõi hoạt
động quân sự
Trung Quốc.
Kết quả thật
đáng lo ngại,
nếu không nói
là đầy tính
cảnh báo. Hóa
ra quân đội
Trung Quốc đã
mạnh hơn Mỹ
nghĩ rất
nhiều. Trước
sự kiện 1996,
CIA gần như
chẳng đếm xỉa
đến Trung
Quốc.
Trong
báo cáo các
mối đe dọa
toàn cầu vào
tháng 2/1996,
Giám đốc CIA
John Deutch
trình bày ngắn
gọn: “Chúng ta
vẫn biết rất
ít về giới
lãnh đạo tương
lai Trung Quốc
cũng như kế
hoạch của họ”.
Một năm sau,
sau vụ khủng
hoảng Đài
Loan, người kế
nhiệm Deutch,
George Tenet,
bắt đầu “la
thất thanh”:
“Những hành
động và tuyên
bố của Trung
Quốc cho thấy
họ quyết tâm
thể hiện mình
như một sức
mạnh đỉnh cao
ở Đông Á”. Đến
năm 1998,
Tenet tin chắc
rằng, giới
lãnh đạo Trung
Quốc “có một
mục tiêu rõ
ràng: biến
nước họ thành
một sức mạnh
chủ yếu ở Đông
Á cũng như là
cường quốc
kinh tế hàng
đầu thế giới
ngang hàng Mỹ
vào giữa thế
kỷ XXI”.
Sau
những năm
tháng tận tình
nuôi lớn con
cọp dữ và bây
giờ nó không
những không bị
thuần hóa mà
còn bắt đầu
tính quay sang
đớp chủ, Mỹ đã
bắt đầu biết
“hối” rồi
chăng? Đã quá
muộn!
Khi
cùng nhận ra
“dung nhan”
thật của người
tình, với bản
chất thật sự
của nó, đằng
sau lớp son
phấn giả tạo
bắt đầu rơi
rớt, cả hai
đều có những
“ứng xử” đối
phó. Với Mỹ,
đó là một
chính sách gồm
ba bước. Với
Trung Quốc là
bắt đầu xây
dựng chiến
lược mới. Cách
chọn lựa những
gì cần làm và
cách dứt khoát
như thế nào
những gì cần
loại bỏ trong
các đề mục của
đối sách đối
ngoại ở bối
cảnh mới của
mối quan hệ sẽ
là những yếu
tố quyết định
thành bại, nếu
không muốn nói
là mang tính
sinh tử, đối
với cả hai…
Bài 3: Điều chỉnh và tái
cân bằng
Duy
trì cân bằng
Với
cái thế đang
lên như rồng
cuốn của Trung
Quốc, cùng sự
gắn kết móc
xích kinh tế
giữa Mỹ và
nước này,
Washington
hiểu rằng sẽ
là hạ sách nếu
cố kiềm tỏa
Bắc Kinh bằng
chính sách cô
lập triệt để
như từng dùng
thời Chiến
tranh lạnh với
Liên Xô và
Đông Âu. Cho
nên, phương án
được chọn của
Mỹ là tìm cách
cân bằng. Cân
bằng tốt sẽ là
cách hữu hiệu
để gián tiếp
khống chế.
Ấn Độ là một chọn lựa trong thế trận khống chế Trung
Quốc của
Washington
(ảnh: Tổng
thống Bush và
Thủ tướng
Manmohan Singh
tại New Delhi,
tháng 3/2006)
Thứ
nhất, đó
là triển khai
mạnh sự hiện
diện quân sự
tại Thái Bình
Dương. Đấu
pháp này thật
ra không phải
bắt đầu sau
khi Barack
Obama ngồi ghế
tổng thống
(năm 2009) mà
đã hình thành
từ thời Bill
Clinton, khi
Clinton tiên
liệu được sức
mạnh mang tính
đe dọa quyền
lợi Mỹ của
Trung Quốc tại
đấu trường
châu Á, đã
quyết định duy
trì một lực
lượng ổn định
với tối thiểu
100.000 quân
tại Châu Á -
Thái Bình
Dương. Sang
thời George W.
Bush, trái với
nhiều nhận
định rằng,
Bush đã bỏ
lỏng châu Á
cho Trung Quốc
khi dồn lực
vào cuộc chiến
chống khủng
bố, chính nội
các Bush mới
là nơi khai
sinh khái niệm
“tái phối
trí”, khi Bộ
trưởng Quốc
phòng Donald
Rumsfeld triển
khai mạnh
chương trình
tái phối trí
lực lượng quân
sự Mỹ khắp
toàn cầu với
sự tăng cường
hiện diện khá
rõ nét tại
châu Á. Quân
đội Mỹ được
phân bổ dàn
rộng hơn
(không tập
trung ở những
căn cứ truyền
thống như
Okinawa và Hàn
Quốc), với yếu
tố tác chiến
cơ động được
đề cao - như
lời Đô đốc
William J.
Fallon giải
thích: “Chúng
tôi đưa lực
lượng mình đến
những nơi mà
chúng tôi nghĩ
có thể sử dụng
mà không cần
phải xin phép
bất kỳ ai”.
Đến
trước khi Bush
rời Nhà Trắng,
hải quân lẫn
không quân Mỹ
đều đã tăng
cường những
đơn vị tinh
nhuệ có khả
năng chiến đấu
cao nhất đến
Thái Bình
Dương. Năm
2007, lần đầu
tiên kể từ sau
Chiến tranh
lạnh, hơn 1/2
tàu chiến của
Mỹ đã được
điều động đến
Thái Bình
Dương, trong
đó có 6 (trong
tổng số 11)
hàng không mẫu
hạm; gần như
tất cả 18
chiếc khu trục
hạm lớp Aegis
(có khả năng
bắn chặn tên
lửa); 26
(trong tổng số
57) tàu ngầm
tấn công...
Cùng lúc,
không quân
cũng chuẩn bị
triển khai các
phi đội chiến
đấu cơ F-22,
oanh tạc cơ
B-2 và máy bay
do thám không
người lái
Global Hawk…
Năm 2007, Tư
lệnh trưởng Bộ
Tư lệnh Thái
Bình Dương, Đô
đốc Timothy
Keating, đã
nói thẳng:
“Chúng tôi
phải duy trì
khả năng vượt
trội tại bất
kỳ hoàn cảnh
nào và bất kỳ
môi trường
nào. Không có
ngoại lệ”.
Thứ
hai, đó là
việc tăng
cường liên kết
đồng minh. Một
lần nữa, điều
này cũng được
dàn dựng vào
thời Clinton
và tiếp tục
duy trì thời
Bush. Năm 1997
rồi lần nữa
vào năm 2005,
giới chức Mỹ -
Nhật đã thảo
luận sâu về
vấn đề hợp tác
quốc phòng
cũng như tìm
cách tháo gỡ
rào cản pháp
lý liên quan
việc mở rộng
quân đội Nhật
(vốn bị hạn
chế bởi Hiến
pháp Nhật được
soạn sau Thế
chiến thứ
hai). Để tránh
bị quy kết can
thiệp nội bộ
Tokyo, nội các
Bush đã ngầm
ủng hộ nhóm
chính trị gia
Nhật kêu gọi
sửa đổi Hiến
pháp. Ngoài
Nhật,
Washington
cũng mở rộng
liên kết hợp
tác quân sự
với Australia
và một số nước
trong đó có
Philippines,
Singapore và
Thái Lan...
Năm 1998,
Singapore thậm
chí đồng ý chi
trả tổn phí
xây một hải
cảng đủ lớn để
chứa hàng
không mẫu hạm
Mỹ (khánh
thành năm
2001). Năm
2003,
Singapore và
Mỹ tiếp tục mở
rộng hợp tác
quốc phòng…
Với Ấn Độ,
bang giao
Washington -
New Delhi từng
có lúc căng
thẳng sau khi
Ấn thử nghiệm
bom nguyên tử
năm 1998. Đến
thời Bush,
quan hệ Mỹ -
Ấn được tái
lập. Vài tháng
sau vụ khủng
bố Mỹ
11/9/2001,
Washington đã
bày tỏ “thiện
chí” cụ thể
(xóa cấm vận;
mở rộng hợp
tác an ninh -
tình báo -
quốc phòng;
tập trận
chung; bán vũ
khí…). Mỹ muốn
Ấn phải mạnh.
Một láng giềng
sát nách Trung
Quốc, với
nguồn lực kinh
tế lẫn quân sự
đủ lớn, sẽ là
một thách thức
thật sự, nếu
không muốn nói
là một đe dọa
“kỳ đà cản
mũi”, đối với
kế hoạch bành
trướng và
thống trị châu
Á của Bắc
Kinh.
Thứ
ba, đó là
sự hạn chế đà
phát triển của
quân đội Trung
Quốc. Đây là
bài toán thật
sự hóc búa đối
với Mỹ. Làm
thế nào để
tăng cường
xuất khẩu Mỹ
(sang Trung
Quốc) mà không
làm ảnh hưởng
an ninh quốc
gia? Mặt hàng
nào nên được
xếp vào nhóm
“nhạy cảm”?
Cho đến nay,
câu hỏi này,
được đặt ra từ
năm 1989, tới
giờ vẫn chưa
có câu trả lời
thỏa mãn hay
một giải pháp
thật sự khả dĩ
mang lại cảm
giác an toàn.
Sau sự kiện
Thiên An Môn,
Tổng thống
George H. Bush
(Bush - bố) đã
áp đặt lệnh
cấm vận toàn
diện đối với
các thương vụ
vũ khí sát
thương dành
cho Trung
Quốc; đồng
thời thuyết
phục các nước
đồng minh áp
dụng tương tự.
Năm 1991 và
một lần nữa
vào năm 1993,
Bush-bố rồi
Clinton đã
chặn đứng việc
xuất khẩu vệ
tinh cho Trung
Quốc. Tuy
nhiên, khi
miếng bánh thị
trường Trung
Quốc đang bị
mất dần vào
tay Nhật và
châu Âu, giới
doanh nghiệp
Mỹ liên tục
vận động hậu
trường để được
Washington cho
“xả cảng”. Vậy
là, trong suốt
thập niên 90,
dù ngày càng
có nhiều ý
kiến bày tỏ
quan ngại sự
bành trướng
quân đội Trung
Quốc, Bộ
Thương mại Hoa
Kỳ vẫn phải
chuẩn y hàng
trăm giấy phép
bán những kỹ
thuật kép cho
Trung Quốc
trong đó có
bán dẫn, máy
móc chính xác
cao và những
thiết bị kiểm
định đặc biệt.
Những mặt hàng
này, như sau
này được biết,
đã chạy thẳng
đến các nhà
máy và phòng
thí nghiệm
quân sự Trung
Quốc, để từ đó
tạo ra những
radar quân sự,
tên lửa hành
trình và vũ
khí hạt nhân…
Tuy
vậy, về tổng
thể, Clinton
lẫn Bush-con
đều cố kiểm
soát tình hình
bất kỳ khi nào
có thể. Năm
2004, một cuộc
tranh luận về
việc tháo bỏ
lệnh cấm vận
vũ khí cho
Trung Quốc một
lần nữa lại
bùng lên tại
châu Âu. Với
chính giới
châu Âu, lệnh
cấm vận 15 năm
dành cho Trung
Quốc đã làm
thiệt hại đáng
kể ngành công
nghiệp quốc
phòng và không
gian của họ.
Đã đến lúc
phải gạt bỏ tư
tưởng hoài
nghi dành cho
Bắc Kinh -
châu Âu đề
nghị. Suýt
chút nữa thì
chiến dịch vận
động xóa cấm
vận vũ khí đối
với Trung Quốc
của châu Âu đã
thành công,
nếu nội các
Tổng thống
Bush-con không
quyết liệt can
thiệp vào giờ
chót…
“Bất
chiến tự nhiên
thành”
Giáo
sư Thời Ân
Hoằng, Trưởng
khoa Nghiên
cứu Hoa Kỳ
thuộc Đại học
Nhân Dân Trung
Quốc nhận định
rằng, Bắc Kinh
nên lợi dụng
lợi điểm xu
thế Trung Quốc
đang lên để
thiết lập một
vị thế “siêu
hạng” hoặc
“gần siêu
hạng” về chính
trị, quân sự,
ngoại giao và
ảnh hưởng kinh
tế, lên ngoại
vi của Trung
Quốc, đặc biệt
Đông Á. Tương
tự, Môn Hồng
Hoa, chiến
lược gia thuộc
Trường Đảng
Trung ương,
cũng nói rằng,
sự thống trị
khu vực của
Trung Quốc
không chỉ là
yếu tố quan
trọng sống còn
mà còn là mục
tiêu tối
thượng cho
tương lai.
Hướng đi của
Bắc Kinh - họ
Môn phân tích
- là phải đạt
được ảnh hưởng
toàn cầu bằng
cách trở thành
sức mạnh thống
trị tại khu
vực Châu Á -
Thái Bình
Dương. Từ bàn
đạp châu Á, sự
thống trị của
Trung Quốc mới
có thể dự
phóng ra thế
giới…
Đến cuối nhiệm kỳ hai của Tổng thống George W. Bush,
quân đội Mỹ đã
hiện diện tại
châu Á với lực
lượng lớn nhất
từ sau Chiến
tranh lạnh
(ảnh: Hàng
không mẫu hạm
USS Ronald
Reagan tại
Trân Châu
Cảng, Hawaii)
Nói
cách khác, mục
tiêu lớn nhất
của Trung Quốc
là phải trục
Mỹ khỏi sân
chơi Đông Nam
Á, một cách
gián tiếp,
không đối đầu
trực diện;
bằng những
“thủ pháp”
sau:
Thứ
nhất, phải
tìm cách trì
hoãn hoặc thậm
chí loại bỏ
bất kỳ phản
ứng có thể nào
của Mỹ, đối
với chiến
thuật tăng
cường hiện
diện thông qua
hợp tác mà Mỹ
đang áp dụng;
Thứ
hai, Trung
Quốc phải lập
ra những thể
chế chính trị
khu vực được
thiết kế sao
cho Mỹ không
thể tham gia;
Thứ
ba, ổn
định những
vùng đệm an
toàn tại khu
vực;
Thứ
tư, Trung
Quốc có thể
tập trung hơn
vào chiến lược
thống trị Biển
Đông trong
khuôn khổ chủ
thuyết “đường
lưỡi bò”. Tổng
quát, điểm nổi
bật trong bảng
tổng phổ của
khúc giao
hưởng đầy giai
điệu ma quái
là chiến lược
“bất chiến tự
nhiên thành”,
tức dùng những
mảng miếng
ngoại giao để
“đánh” Mỹ, hơn
là đối đầu
quân sự với
nước này, bởi
hơn ai hết,
Trung Quốc
hiểu rằng, sức
mạnh quân sự
họ đang có chỉ
“vừa đủ” để
dọa dẫm các
nước láng
giềng chứ
không thể
đương đầu với
con diều hâu
từ bên kia bờ
đại dương.
Dựa
theo bài bản
xây dựng đồng
minh của Mỹ
tại châu Á,
Trung Quốc
cũng có những
dự án xây dựng
thể chế để gắn
kết đồng minh
riêng, trong
đó có Tổ chức
Hợp tác Thượng
Hải hay cơ chế
“cộng ba” đối
với khối
ASEAN. Với
Trung Á, Trung
Quốc đã không
bỏ lỡ thời cơ
tìm kiếm những
cơ hội nảy
sinh khi khối
Liên Xô tan
rã. Và bằng
cách tạo ra mô
hình “đối tác
chiến lược”
với các nước
láng giềng,
trong khuôn
khổ chính sách
“biên giới
mềm” - như
cách nói của
nhà báo Ross
Munro, Trung
Quốc không chỉ
tăng cường ảnh
hưởng mà còn
hạn chế những
rủi ro đe dọa
trong tương
lai. Để thực
hiện chiến
lược “biên
giới mềm” nhằm
tăng cường ảnh
hưởng khu vực
ngoại vi, theo
Munro, Trung
Quốc đã áp
dụng nhiều thủ
đoạn trong đó
có hối lộ giới
chức quốc gia
sở tại, tuyển
dụng giới
doanh nghiệp
và viên chức
địa phương để
cung cấp thông
tin cho Trung
Quốc (những
thông tin này
khi được tình
báo Trung Quốc
sàng lọc lại
sẽ giúp Bắc
Kinh có cái
nhìn rõ hơn về
tình hình
chính trị quốc
gia sở tại),
áp dụng thủ
thuật chèn ép
tinh vi trong
đàm phán biên
giới để buộc
các nước láng
giềng yếu hơn
không chỉ
nhường đất mà
còn phân tán
lực lượng biên
phòng và cuối
cùng, là âm
thầm tổ chức
các cuộc di
dân từ Trung
Quốc sang quốc
gia ngoại vi…
Với
chiến lược
thâu tóm Biển
Đông, một
trong những
khó khăn nhất
đối với Trung
Quốc là chặt
đứt sợi xích
đồng minh lâu
đời giữa Mỹ và
Nhật - một
siêu cường
thật sự hiểu
đúng theo mọi
góc độ của từ
này. Theo cách
nói của chiến
lược gia Từ
Vượng Thịnh
thuộc quân đội
Trung Quốc
(vào tháng
11/2005),
Trung Quốc cần
phải học được
cách “xử lý
riêng biệt với
Mỹ và với
Nhật…; phải
hiểu đúng và
tìm được
phương án giải
quyết vấn đề
dựa trên những
mâu thuẫn và
khác biệt giữa
hai nước này”.
Đó là lý do
tại sao, có
hồi người ta
thấy Trung
Quốc bóng gió
“khuyên”
Washington
rằng, Nhật
ngày càng trở
thành một quốc
gia suy yếu về
kinh tế, không
đáng tin về
chính trị, một
kẻ luôn trong
tâm thế muốn
phục thù đầy
nguy hiểm…
Cùng lúc, Bắc
Kinh cũng gieo
vào giới chính
trị Nhật một
khả năng rằng,
họ có thể bị
Washington
“chơi xỏ lá”,
như cách họ
từng “giở mặt
đểu” bỏ rơi
nhiều đồng
minh trong
lịch sử, một
khi mối quan
hệ với đối tác
đó không còn
mang tính
chiến lược và
không còn thỏa
mãn lợi ích
Mỹ…
Gần
như tất cả lá
bài đã lật
ngửa. Cả hai
đối thủ đều ra
mặt kình chống
nhau. Trung
Quốc đang làm
mọi cách để
loại Mỹ khỏi
châu Á trong
khi Mỹ cố hết
sức để ngăn
chặn sự lan
rộng và mức độ
ảnh hưởng
Trung Quốc đối
với khu vực.
Vậy ai đang
thắng ai?
Kỳ cuối: Ai sẽ thắng ai?
Trò
chơi đấu trí
Giáo
sư Diêm Học
Thông thuộc
Đại học Thanh
Hoa (một trong
những chuyên
gia quan hệ
quốc tế lừng
lẫy Trung
Quốc, lấy bằng
tiến sĩ chính
trị Đại học
California
Berkeley, từng
được chuyên
san Mỹ Foreign
Policy chọn
vào danh sách
100 nhà trí
thức hàng đầu
thế giới) nhận
định rằng,
Trung Quốc
cuối cùng rồi
sẽ nổi trội
hẳn ở trung
tâm của một
trật tự khu
vực mới.
Trong
đó tất cả các
nước Đông Á
không còn chọn
lựa nào khác
là phải chấp
nhận sự lãnh
đạo Trung
Quốc; Nhật có
thể sẽ đứng
ngoài cái trật
tự mới này
nhưng rồi “đến
lúc nào đó khi
mà câu lạc bộ
Trung Quốc bắt
đầu ngày càng
lớn mạnh thì
Nhật cũng phải
nhảy vào”.
Theo
cách nói của
họ Diêm, có
thể thấy rằng,
trong bối cảnh
trên - được
nhìn như một
thực tế xảy ra
không sớm thì
chầy, trục các
quốc gia đồng
minh của Mỹ
tại khu vực
hoặc sẽ ngưng
tồn tại hoặc
sẽ bị hút sạch
sinh lực trong
cuộc chạy đua
vũ trang với
Trung Quốc.
Tương
tự, năm 2007,
Giáo sư Thời
Ân Hoằng cũng
dự phỏng rằng,
nếu Trung Quốc
tiếp tục lớn
mạnh, Mỹ sẽ
“có khuynh
hướng rõ hơn
việc cân nhắc
lại hoặc thậm
chí chấp nhận
thuận theo một
giải pháp cuối
cùng mang tính
hòa bình, đồng
thời Mỹ cũng
nhận thức rõ
một sự phân
biệt về sự cân
bằng quyền lực
và ảnh hưởng ở
những khu vực
địa lý khác
nhau”; trong
đó, Washington
sẽ phải chấp
nhận “vị thế
lãnh đạo” của
Trung Quốc,
xét về ảnh
hưởng tổng thể
chính trị,
kinh tế lẫn
ngoại giao tại
châu Á”, cũng
như (chấp nhận
sự thật về)
“sự tương đồng
quân sự và
thậm chí nhỉnh
hơn Mỹ khi xét
đến các khu
vực duyên
hải”…
Khước từ chính sách “ẩn mình” thời Đặng Tiểu Bình, Trung
Quốc liên tục
phô diễn sức
mạnh quân sự
Theo
cách nói của
hai nhà chính
trị học tên
tuổi trên, xem
ra Mỹ gần như
không có “cửa”
thắng Trung
Quốc, chi bằng
sớm biết điều
“qui thuận” và
chấp nhận một
thực tế bất
khả từ. Sự tự
tin Trung Quốc
còn thể hiện ở
một câu chuyện
được Đô đốc
Timothy
Keating
(nguyên tư
lệnh trưởng Bộ
Tư lệnh Thái
Bình Dương của
Mỹ) thuật vào
tháng 3/2008
trong phiên
điều trần
trước Ủy ban
Quân vụ Hạ
viện Hoa Kỳ.
Keating
kể, trong một
cuộc gặp, một
đô đốc Trung
Quốc đã đề
nghị nên vẽ
một lằn ranh
chia đôi Thái
Bình Dương,
trong đó “các
anh có thể giữ
phần phía đông
Thái Bình
Dương, từ
Hawaii đến
duyên hải Mỹ.
Chúng tôi thì
giữ phần phía
Tây Thái Bình
Dương, từ
Hawaii đến
duyên hải
Trung Quốc”.
Tất nhiên tay
đô đốc Trung
Quốc chỉ nói
đùa nhưng điều
đó cũng cho
thấy phần nào
cái hàm ý về
sức mạnh và sự
ảnh hưởng
Trung Quốc mà
Mỹ khó có thể
chống lại. Nó
cũng cho thấy
một ngụ ý
rằng, nếu
“anh” tử tế
thì “tôi” còn
rộng lượng
chia phần, còn
không thì mất
trắng!
Một
thập niên qua,
sự đối đầu
giữa Mỹ và
Trung Quốc
ngày càng trở
nên công khai,
lắm lúc đôi
bên chẳng cần
giữ kẽ hay tế
nhị trong ngôn
từ. Cả hai đều
nhận thức rõ
rằng họ đang
thật sự là đối
thủ của nhau.
Một mất một
còn. Rừng
không thể có
hai cọp! Khi
Mỹ thể hiện rõ
quyết tâm hiện
diện châu Á để
khống chế sức
mạnh Trung
Quốc thì Trung
Quốc cùng lúc
cũng trở nên
hung hãn hơn
trong tư thế
của con chó dữ
sẵn sàng tấn
công kẻ lạ lăm
le vào nhà
mình (và cả
những nhà hàng
xóm mà mình
đang muốn thể
hiện vai trò
của một tay
anh chị “bảo
kê”)!
Họ cố
“đọc” được
những nước cờ
tiếp theo của
đối thủ. Ai
đang thắng
trong cuộc đọ
sức này? Nói
cách khác, ai
đang tiến đến
gần hơn đến
việc đạt được
những mục tiêu
chiến lược mà
mình phác
thảo? Hãy còn
quá sớm để có
thể chủ quan
kết luận ai
đang thắng ai
trong cuộc
tranh giành
này. Ở vài
trận địa, phần
thắng có vẻ
nghiêng về
Trung Quốc.
Vài trận địa
khác, Trung
Quốc đang ấm
ức nhìn Mỹ
chơi trội hơn
họ.
Bởi
tính chất cuộc
đấu là giành
giật ảnh hưởng
nên trước mắt
cả hai đều
chơi trò đấu
trí trong việc
“dụ dỗ” lôi
kéo đồng minh.
Nói theo ngôn
ngữ hình tượng
là “móc toa”.
Ai móc được
nhiều toa hơn
thì khả năng
giành chiến
thắng cao hơn.
Tuy nhiên, yếu
tố phức tạp
của cuộc đấu
dài hơi không
chỉ nằm ở kỹ
thuật chiêu dụ
đồng minh mà
còn ở sự chi
phối của tính
thời cuộc và
cả sự thay đổi
tư duy chính
trị của giới
lãnh đạo. Đó
là lý do người
ta thấy có khi
“toa” này
tưởng chừng
đang được móc
chặt vào đầu
kéo Trung Quốc
nhưng sau đó
đột nhiên lại
“tách ray” để
móc vào chiếc
đầu kéo Mỹ.
Trường
hợp Myanmar là
một ví dụ!
Tổng quát,
riêng trong
cuộc đấu giành
giật và xây
dựng đồng
minh, Mỹ rõ
ràng đang
thành công hơn
Trung Quốc,
xét về chiến
lược lẫn chiến
thuật. Một
phần vì Trung
Quốc đã “lộ
hàng” quá sớm,
phô diễn sức
mạnh quá sớm,
bày tỏ thái độ
diều hâu hung
hãn quá sớm -
sớm hơn nhiều
so với sức
mạnh thật sự
mà họ đang có.
Cho nên, thay
vì kết bạn
được nhiều hơn
- dù có lợi
thế vượt trội
Mỹ về ảnh
hưởng kinh tế
và đặc biệt là
văn hóa đối
với khu vực,
Trung Quốc lại
đang bị cô
lập, bởi chính
họ!
Hơn
lúc nào hết,
các nước châu
Á đang nhìn
Trung Quốc
bằng cặp mắt
nghi kỵ. Vào
cuối nhiệm kỳ
hai của George
W. Bush
(2008), các
cuộc thăm dò ý
kiến tại Hàn
Quốc cho thấy,
có đến 74%
người được hỏi
đã bày tỏ lo
ngại về sự đe
dọa quân sự
Trung Quốc
(một tỉ lệ còn
cao hơn tại
Mỹ, nơi có
70%)!
Vấn
đề là ai biết
cách “quản lý
rủi ro” tốt
hơn
Nói
theo ngôn ngữ
kinh doanh,
bất cứ cuộc
đầu tư nào
cũng chứa đựng
yếu tố rủi ro.
Vấn đề là biết
cách lượng
định mức độ
rủi ro và cách
xử lý tình
huống một khi
rủi ro xảy ra.
Với giới hoạch
định, họ luôn
kỳ vọng những
điều tốt nhất
trong khi cùng
lúc phải biết
chuẩn bị cho
những gì xấu
nhất. Điều xấu
nhất ở đây là
gì và yếu tố
rủi ro nào,
nếu không thể
tránh khỏi, là
sẽ đáng sợ
nhất? Đó là
chiến tranh!
Liệu có khả
năng xảy ra
chiến tranh
giữa Mỹ và
Trung Quốc?
Đâu là “tiền
đề” để thần
chiến tranh
xuất hiện?
Như
đã nói ở kỳ
một, yếu tố
ràng buộc kinh
tế chưa chắc
là điều khả dĩ
giúp giải tỏa
sự căng thẳng
dẫn đến chiến
tranh, một khi
cả hai - hoặc
một bên - nhận
ra rằng mâu
thuẫn và xung
đột lợi ích
bắt đầu trở
nên nghiêm
trọng đến mức
quyền lợi quốc
gia bị thiệt
hại nặng nề và
không còn con
đường nào khác
hơn là sự chọn
lựa binh đao.
Trung Quốc liệu có thể “quản lý rủi ro” tốt khi liên tục
thách thức
Nhật tại quần
đảo tranh chấp
Senkaku/Điếu
Ngư? (ảnh: một
cuộc bám đuổi
giữa tuần
duyên Nhật và
tàu Hải giám
Trung Quốc
ngày
14/9/2012)
Xét
về tổng thể,
Trung Quốc -
dù dư dả tiền
của và là chủ
nợ khổng lồ
của Mỹ - đang
yếu hơn Mỹ rất
nhiều. Họ có
những vấn đề
nội bộ và
nhiều thách
thức lớn hơn
Mỹ vạn lần, ở
thời điểm hiện
tại cũng như
lâu dài. Ở một
nơi vẫn tồn
tại hiện tượng
“quốc phú, dân
cùng”, đầy dẫy
tham nhũng,
nền tảng kỹ
thuật yếu kém,
trình độ khoa
học thiếu sáng
tạo nhưng thừa
“chỉ số” ăn
cắp, nguồn tài
nguyên hiếm
hoi nhưng dư
thừa “khả
năng” tàn phá
môi trường… xã
hội Trung Quốc
đang sôi sục
và tiềm ẩn
nhiều bất ổn
dẫn đến rạn vỡ
và thậm chí
tan nát. Khi
mà chưa giải
quyết được
những khó khăn
và khủng hoảng
nội tại, Trung
Quốc sẽ không
đủ tỉnh táo
phác thảo
những kịch bản
và kế hoạch
lâu dài đối
phó với Mỹ.
Đây là một
trong những
điểm yếu sinh
tử của Trung
Quốc.
Trong
khi đó, “bài”
mà Trung Quốc
áp dụng thường
xuyên gần đây,
quen đến mức
thế giới đã
“thuộc”, là
mạo hiểm
chuyển bớt
“lửa” từ trong
nước ra bên
ngoài. Nó đã
bộc lộ một tâm
trạng bất lực
hơn là thể
hiện của một
đòn thế khiến
đối phương sợ
hãi. Cái cách
mà cứ bất kỳ
khi nào tình
hình trong
nước rối ren
thì Trung Quốc
lại hung hăn
với những động
thái gây hấn
khu vực chỉ
mang lại bất
lợi cho Trung
Quốc về mặt
đối ngoại và
làm hỏng đại
cục của Trung
Quốc trong
chính sách
thôn tín châu
Á. Mặt khác,
nó lại vô tình
giúp Mỹ lôi
kéo thêm đồng
minh.
Điều
đáng nói nhất
là sẽ rất khó
cho Trung Quốc
“quản lý rủi
ro” trong
chiến thuật
“chuyển lửa”
ra bên ngoài.
Họ không thể
dập tắt ngọn
lửa này lại
cùng lúc tạo
ra một đám
cháy khác!
Trận hỏa hoạn
trong nước (có
thể xảy ra từ
những dồn nén
bất ổn xã
hội), so với
trận hỏa hoạn
bên ngoài (có
thể xảy ra từ
thái độ hiếu
chiến), trận
nào sẽ kinh
khủng hơn, đã
lượng định và
so sánh được
hậu quả của
hai trận hỏa
hoạn chưa,
trận hỏa hoạn
nào mới là
ngọn lửa thật
sự làm cháy
rụi căn nhà,
mới là ngọn
lửa đốt trụi
quốc gia và
xóa sổ chế
độ?...
Điều
đáng nói nữa
từ cái “điều
đáng nói” trên
là khi mà
Trung Quốc
cuối cùng nhận
ra rằng họ
không đủ sức
“quản lý rủi
ro” nữa thì họ
có thể có
khuynh hướng
chơi cú liều
“được ăn cả,
ngã về không”.
Lúc đó, chiến
tranh sẽ bùng
nổ. Theo nhận
định của hai
phân tích gia
Mark Burles và
Abram Shulsky
thuộc Viện
Nghiên cứu
chính sách
RAND (Mỹ),
Trung Quốc sẽ
có khả năng
đánh trước. Họ
muốn tận dụng
lợi thế của
yếu tố bất
ngờ. Điều mà
Mark Burles và
Abram Shulsky
không diễn
giải là tại
sao yếu tố bất
ngờ lại quan
trọng đối với
Trung Quốc. Đó
là vì Trung
Quốc hiểu rõ
rằng, họ không
thể địch lại
Mỹ và “bầy
sói” đồng minh
của Mỹ xét ở
mọi góc độ của
chiến tranh
qui ước. Chỉ
bằng yếu tố
bất ngờ mới có
thể giúp họ có
được lợi thế ở
“hiệp một” so
với đối
phương...
Tất
nhiên viễn
cảnh chiến
tranh không
thể xảy ra
chừng nào hai
bên còn đủ
tỉnh táo và
kiên nhẫn để
kiềm chế (và
còn chưa hết
“bài” để tiếp
tục thức thâu
đêm đánh đến
tàn cuộc). Tuy
nhiên, như đã
nói, vấn đề
tối quan trọng
lúc này là ai
đủ bản lĩnh để
kiểm soát tình
hình và đủ khả
năng để “quản
lý rủi ro” -
những rủi ro
không thể
không tính đến
và không thể
không xảy ra,
phát sinh từ
những chiến
lược tranh
giành ảnh
hưởng…
Ngọc
Trí
(Nguồn
tham khảo: “A
Contest for
Supremacy:
China,
America, and
the Struggle
for Mastery in
Asia”; giáo sư
Aaron L.
Friedberg; NXB
W. W. Nortin
& Company;
phát hành ngày
1/10/2012)
__._,_.___
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét