Bài đăng phổ biến

Thứ Tư, 12 tháng 8, 2015


THÊM MỘT CHUYỆN CỔ TÍCH

Gọi là cổ tích vì câu chuyện cũng đã hơn nửa thế kỷ (1954 – 2014) Đã sáu mươi năm, nhân dân ba tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn và Thái Nguyên, nhất là hai huyện Nguyên Bình và Đại Từ, cùng với cán bộ và sỹ quan Trung Đoàn 367, ai cũng biết chuyện này nhưng không ai kể ra vì “lợi ích của cách mạng”. Chuyện im hơi lặng tiếng vì nói ra là làm hại cho cách mạng ở Việt Nam ta thì kể tối ngày không hết. Nghĩa là nhiều lắm!
Có nhiều chuyện, sau khi đất nước thống nhất thì nội dung đã được bạch hóa một phần hay toàn phần. Câu chuyện này cũng không ai nói nó đã được phép “hé” ra phần nào hay chưa? Nhưng xét riêng tôi, đã qua tuổi 83, sức nhớ đã lẩm cẩm, sức khỏe đã loạng quạng, không khéo mà mang theo xuống mồ thì nó phí của giời đi, nên mạo muội cứ viết ra đây để tùy những người có trách nhiệm cân nhắc xem cần bí mật đến đâu? Chứ về phía địch thì nó “toạc móng heo” từ đời tám hoánh rồi.
Câu chuyện sau đây nó liên quan đến Hiệp Định Geneve năm 1954về đình chiến ở 3 nước Đông Dương, nằm ở điều khoản bổ xung và thay thế vũ khí ở mỗi bên.

Lệnh của Bộ: “Phải bảo đảm cho vườn cây được xanh tốt!”… Chỉ nguyên nội dung này đủ làm lính vỡ mật. Cả một vạt rừng dài hàng cây số, rộng vài trăm mét, được lính tạo nên bằng cách chặt cành cây tươi từ những khu rừng xa, kéo về xếp thành rừng, che kín những khí tài vật dụng quân sự mới đưa từ xa đến. Cành cây muốn luôn tươi tốt phải thay ngày ba lượt. Sức lao động của cả nhiều trung đoàn chỉ đủ cho một nhiệm vụ. Ngoài ra những loại xe cộ di chuyển  thành vệt thành đường cũng phải xóa hết dấu vết. Lính ta có sáng kiến, khiêng ngay hẳn một căn nhà đặt giữa lối đi thế là đường thành sân trước, vườn sau. Lính đóng ngay vai chủ nhà, thật tiện…
Tất cả chỉ vì cái anh chàng Canada trong Ủy hội Quốc Tế Giám Sát đình chiến cứ rẫy lên đòi kiểm tra nơi này nơi nọ vì nghe nói Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đang được ồ ạt đổ vũ khí vào. Nói thế không có nghĩa là ở phía nam không hề có chuyện ây? Thực ra cả hai phía đều phải tranh thủ làm cái việc cần thiết ấy, nhưng không bên nào muốn mình mang tiếng vi phạm Hiệp Định. Sự tăng viện cứ theo nhau tăng mãi cho đến khi bên này có B-52 thì phía bên kia phải có đến SAM2, MIG21. Như thế câu chuyện mới tâm đầu ý hợp.

Trở lại năm 1954, khi đơn vị chúng tôi về đứng chân ở Thạch Thất, chuẩn bị cho việc tiếp quản Hà Nội, thì có lệnh: Bàn giao Súng máy Phòng Không 12ly8 cho địa phương, chỉ giữ súng bộ binh và lên đường ngay nhận nhiệm vụ.
Bỏ Hà Nội lại phía sau lưng, chúng tôi theo đê sông Đáy, vượt sông Hồng sang Phúc Yên rồi theo chân Tam Đảo lên Thái Nguyên, men Sông Cầu vượt Bắc Kạn, qua Nà Phạc, rồi leo Col Lea sang Nguyên Bình, nơi đây đã là đất Cao Bằng. Nhiệm vụ hé dần sau từng ngày hành quân. Thế là chúng tôi bỏ nhiệm vụ tiếp quản Thủ Đô mà hành quân lên biên giới để tiếp nhận vũ khí phòng không thế hệ mới. Bắn bằng radar, liên động điện, cả trận địa một động tác rồi thì dựng màn đạn, bắn mà không cần nhìn thấy máy bay bằng mắt thường… chao ôi là mê ly!  Nhưng nhớ rằng, trước khi sờ được tay vào súng là việc phải dấu súng cho kỹ.

Ủy Ban Quốc Tế Đình Chiến gồm 3 anh Ấn Độ, Ba Lan và Ca Na Đa, phải hành quân bằng đường bộ theo lối Bắc Kạn – Bell’Air (Đèo Gió) qua Suối Tài Hồ Xìn. Cầu Tài Hồ Xìn đổ nghiêng xuống suối từ lâu, xe muốn sang Cao Bằng chỉ có 0000nước là lội qua suối.
Xe UBQT dừng ở phía nam suối. Anh Canada đề  nghị mọi người leo trên những thanh cầu gây trong luồng gió bắc thổi vù vù. Hai anh Ba Lan và Ấn Độ không chơi, anh Canada thích thì cứ leo.
Con suối đã được lính chúng tôi lội xuống dưới cái lạnh âm 5 độ C để moi đá cho sâu lòng suối. Làm suốt ngày đêm, 5 phút phải thay một tổ, nếu không muốn hóa đá. Tin tức báo cáo liên tục về Bộ Tổng, đầu dây đằng kia là Đại Tướng Tổng Tư Lệnh chỉ đạo.
Suốt một đời lính, cho đến tận bây giờ chưa có năm nào rét như thế, hơi thở ra bám vào râu, vào lông mày trắng như tuyết. Lá cây như bị lửa táp, chân tay nứt nẻ lại càng thấm thía với cái rát buốt.

Doanh trại tuy đã làm xong ở Nước Hai, nhưng tình hình này thì không thể yên ổn tổ chức chuyển binh chủng, nên phải tính kế chuyển sâu vào nội địa, thế là phải chuyển tất cả về Đại Từ Thái Nguyên. Hành quân đường dài hàng trăm cây số, trước sự săn lùng của UBQT phải hành quân bí mật, phải xóa bỏ dấu vết, biết bao nhiêu việc mà lính ta chưa hề làm bao giờ. Đại đội của tôi được đơn vị giao cho nhiệm vụ đi sau cùng, xóa bỏ mọi dấu, kể cả phá cầu cống, không để lại bất kỳ dấu vết nào trên đường.
Pháo 88mm do Liên Xô thu được nguyên cả dây chuyền sản xuất ở Tiệp Khắc, chưa kịp sử dụng, chuyển cả sang Việt Nam “thử pháo”. Loại này 8 bánh do xe xích Tholachi kéo, các khí tài 4B, 2B đều do ô tô kéo, Vết xích xe kéo trên đường hoặc bãi tập kết, đại đội tôi phải xóa hết dấu vết, thậm chí mượn cầy của dân để cầy xóa. Cả đại đội cào bãi, quét đường, nửa tháng sau mới về đến Vai Cầy thì đã sát Tết.
Cả hai cuộc tiếp quản, một về Thủ đô thì ồn ào sôi nổi, một đi tiếp quản vũ khí, thì âm thầm lặng lẽ, nhưng với quân đội, việc hoàn thành mọi nhiệm vụ đều có một giá trị tinh thần ngang nhau, không thể so sánh,..
Sau một năm, ngày đêm luyện rèn, đơn vị đã nắm vững vũ khí mới và được chuyển đi bảo vệ yếu địa. Đầu năm 1956, chung quanh những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Quảng Ninh,Thái Nguyên v.v… có những bãi pháo, người đi ngoài không biết những hoạt động bên trong của lính, chỉ sau ngày 5 tháng 8 năm 1964, những trận địa pháo mới công khai nổ súng bảo vệ thành phố. Một giấc mơ chiến đấu đã được công khai với mọi người. Chiến công đầu do những người lính “tiếp quản chậm” đã vang lừng bầu trời quê hương và thỏa lòng nhân dân yêu dấu.

Người lính rời khu vực doanh trại và pháo trường ra đi, để lại thung lũng Vai Cầy sau này thành thắng cảnh HỒ NÚI CỐC nổi tiếng.
Liệu có ai qua đây, còn thấy từ dưới lòng hồ vẳng lên tiếng hát của những chàng trai pháo thủ yêu đời thuở nào.

                                       Linhgia nguyên Khẩu Đội Trưởng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét