Bài đăng phổ biến

Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013

Vài điều nên biết về dòng vi-rút gia cầm mới


Vài điều nên biết về dòng vi-rút gia cầm mới
Một vi-rút cúm gia cầm (bird flu virus) chưa từng thấy trên con người đã được toàn thế giới chú ý vào tuần này sau khi gây nhiễm và tử vong tại Trung quốc. Các nhà khoa học đang ra sức tìm hiểu sự cố và quan trong hơn cả là xác định xem liệu vi-rút này có là mối đe dọa cho sức khoẻ công cộng hoặc có thể làm bùng nổ một  đại dịch cúm toàn cầu hay không.
http://cdn.asiancorrespondent.com/wp-content/uploads/2013/04/ChinaBirdFluApril2012.jpg
Điều đáng mừng là cho tới nay chưa có dấu hiệu là vi-rút H7N9 truyền từ người sang người, nhưng các chuyên gia cho biết là họ hơi lo ngại vì  vi-rút này đã đột biến (mutated).  
Dưới đây là một vài chi tiết về dòng vi-rút cúm mới H7N9 này
1- Vi-rút H7N9 là gì?
Dòng vi-rút H7N9 –mà tên được đặt theo sự phối hợp của các protein trên bề mặt của nó--đã gây nhiễm cho 11 người tại Trung quốc từ tháng hai vừa qua tới nay, và trong số này 4 người đã chết. Các triệu chứng bao gồm sốt và các bệnh về đường phổi kể cả viêm phổi nặng. Hiện nay người ta chưa biết nhiểu vể vi-rút này  kể cả việc con người bị nhiễm ra sao, nhưng các nhà khoa học cho biết vi-rút này có chứa những chất đánh dấu di truyền  (genetic markers) có thể giúp nó gây nhiễm cho người
Các nhà khoa cho rằng vi-rút này đã lan truyền trong các đám gia cầm mà không làm gia cầm nhiểm khuẩn bị chết. Nhờ vậy vi-rút lây lan trong các đám gia cầm mà không bị phát hiện, làm cho việc theo dõi thêm khó khăn  và giúp nhiều cho sự truyền nhiễm vì các gia cầm tuy bị nhiễm nhưng vẫn sống sót trong các trại chăn nuôi, chợ búa…
Dân chúng có nên quan tâm vể vi-rút này hay không?
Cho tới lúc này thì không có gì đáng lo ngại  đối với dân chúng. Hiện các chuyên gia đang theo dõi tình hình chặt chẽ  . Họ chưa tìm ra chứng cớ gì cho thấy bệnh cúm này lây từ người sang người, và cũng chưa có ca cúm  nào xẩy ra bên ngoài Trung quốc. Các mẫu thử nghiệm đã được lấy từ các bệnh nhân và Cơ quan Kiểm soát và Phòng chống Bệnh tật Trung quốc đã chia sẻ các thông tin di truyển về vi-rút này cho các nhà khoa học bên ngoài Trung quốc. Điều này sẽ giúp các chuyên gia hàng đầu về cúm trên toàn cầu nghiên cứu và tìm kiếm những đột biến có thế làm cho vi-rút này trở thành nguy hiểm hơn. Các gia cầm và sản phẩm liên hệ vẫn có thể được tiêu dùng an toàn miển là được nấu chín
3- Đã có vắc-xin chống lại dòng vi-rút cúm này chưa?
Hiện nay thì chưa có. Nhưng Tổ chức Y tế Quốc tế (WHO) và các đối tác đang cô lập và xác định những vi-rút có thể dùng đễ sản xuất một vắc-xin tuơng lai nếu cần. Tuy nhiên, cũng phải cần nhiều tháng mới có thể đưa ra những liểu lượng vắc-xin đầu tiên
4- Các nhà khoa học đã thấy những thay đổi gì trong vi-rút này và các thay đối này quan trọng ra sao?.
Mặc dầu chưa được rõ ràng nhưng dường như vi-rút này đã đột biến theo chiều hướng giúp cho nó dễ thích ứng và tăng trưởng hơn ở thân nhiệt bình thường của các động vật có vú. Các nhà khoa học đang tìm xem những chủng loại nào có thễ là “vật chủ” (host)  của vi-rút này, và khả năng có thể là heo
Heo quan trọng vì nó có những tượng đồng về cơ bản sinh học với con người, và nó có thể là “thuyền chở hỗn tạp” nếu bị nhiễm nhiều loại cúm khác nhau cùng môt lúc
Những khả năng khác  là các đột biến có thể xẩy ra trong gia cầm hoặc phát sinh ra sau khi người bị nhiễm bởi gia cầm
Ông Richard Webby, Giám đốc Trung tâm Cúm cũa WHO trụ sở đặt tại Bệnh viện St Jude Children’s Research Hospital, Memphis, Tennessee cho biết “Đối với tôi điều quan trọng nhất là phài tìm cho  ra “vât chủ” (host) của vi-rút này. Có vẻ như  thật sự một động vật có vú nào đó đã là vật chủ”
5- Cúm gia cầm này khác với loại cúm gia cầm H5N1 trước đây ra sao?
Vi-rút H5N1 giết chết nhiều gia cầm nên dễ bị nhận diện và giúp chúng ta dễ chặn đứng sự bột phát của nó trong gia cầm. H5N1 vẫn luôn chỉ là dịch cúm của loài chim (avian influenza) và không có “bẳt rễ” sang bất cứ chủng loại nào khác, như heo chẳng hạn. Hầu hết những người bị nhiễm cúm này là do tiếp xúc với gia cầm bị bệnh. Các nhà khoa học đã theo dõi sát vi-rút này kể từ khi nó xuất hiện lần đầu tiên tại Hong kong vào năm 1997. Vi-rút này đã tái xuất hiện vào năm 2003 và đã giết hại nhiều đám gia cầm ở  khắp Châu Á và gây tử vong cho 371 người. Khoảng 60 phẩn trăm ngưởi nhiễm vi-rút H5N1  đã bị chết, vì vậy các chuyên gia từ lâu đã lo ngại rằng vi-rút này đã đột biến thành một dạng có thể lan truyển dễ dàng từ người sang người và có tiềm năng”châm ngòi” cho một đại dịch


Bệnh cúm loại A : thuốc kháng và vắc-xin ngừa

Bệnh cúm
Bệnh cúm (influenza/flu)  là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, dễ gây thành dịch lớn do nhiễm virut cúm, có biểu hiện lâm sàng là nhức đầu, đau mình mẩy, sốt, ho và mệt mỏi. Bệnh gây ảnh hưởng lên đường hô hấp trên và dưới, thông thường bệnh diễn biến tự khởi song có thể gây nhiều biến chứng nặng, nguy hiểm nhất là viêm phổi do vi khuẩn và suy đa tạng.
Các loại virut cúm
Virut cúm (Influenza virus) là thành viên họ Orthomyxoviridae, gồm 3 loại A, B và C.
Loại
Chủng
        Phân loại
Vật chủ
Cúm A
(Influenzavirus A)
Influenza A virus
H1N1, H1N2, H2N2, H3N1, H3N2, H3N8, H5N1, H5N2, H5N3, H5N8, H5N9, H7N1, H9N2, H10N7
Người, lợn, chim, ngựa
Cúm B
(Influenzavirus B)
Influenza B virus

Người, hải cẩu
Cúm C
(Influenzavirus C
Influenza C virus

Người, lợn
Virut cúm A được chia thành nhiều phân loại dựa trên  hemagglutinin (H) và neuraminidase (N) tìm thấy trên bề mặt virut cúm. Hemagglutinin cúm (influenza hemagglutinine) là một glycoprotein kháng nguyên (antigenic glycoprotein) có trách nhiệm ràng buộc virut với tế bào bị nhiễm khuẩn. Neuraminidase virut (viral neuramidase) là một enzim giúp virut được phóng thích bởi tế bào chủ (host cell)
Có 16 loại kháng nguyên H (H1 -> H16) và 9 kháng nguyên N (N1 -> N9), nghĩa là có tất cả144 tập hợp các loại virut cúm A. Có ba H (H1-H2-H3) và hai N (N1-N2) gây bệnh cho người. Gần đây cúm gà H5N1 cũng gây bệnh cho người do lây trực tiếp từ gà sang nhưng chưa xác định được chúng có biến dạng thành cúm để lây từ người sang người hay không.

Các virut  cúm người A và B gây những dịch theo mùa vào mỗi mùa đông tại Hoa kỳ. Sự xuất hiện của một loại virut cúm mới và rất khác lạ gây nhiễm cho người có thễ dẫn đến một đai dịch cúm.

Bệnh cúm do virut C gây bệnh nhẹ về phổi và không tạo nên dịch bệnh

Về hình thái học virut cúm A, B, C tương tự nhau. Các virion là những phân tử virut hình cầu, bề mặt không đồngđều, đường kính 80 - 120 nm và có một lớp vỏ lipid bao quanh một hạt nhân. Hạt nhân cho virion tinh gây nhiễm khuẩn (infectivity) còn vỏ bọc mà  trên bề mặt có các glycoprotein H và N mang tính đặc thù (specifity) của virut ( nên ghi nhớ là kháng thể của kháng nguyên H là yếu tố quyết định chủ yếu sự miễn dịch đối với virut cúm, trong khi những kháng thể của kháng nguyên N giới hạn sự lây truyền và góp phần làm giảm nhiễm virut )
Virut cúm rất dễ biến dị nhất là virut cúm A. Do biến dị nên virut cúm gồm nhiều phân loại. Mỗi lần virut biến dị kháng nguyên HA và NA bị biến đổi, do đó gây khó khăn trong việc sản xuất vacxin phòng bệnh cúm. Có 16 loại kháng nguyên H (H1 -> H16) và 9 kháng nguyên N (N1 -> N9), nghĩa là có tất cả144 tập hợp các loại virut cúm A.
Thuốc kháng cúm loại A
Virut cúm  loại A gây cúm trầm trọng ở người được chia dạng theo kháng thể của huyết thanh (serotype), như sau:
 
Thuốc kháng cúm loại  A có hai dòng
 
Dòng cũ gồm hai thuốc chính là Amantadin, Rimantadin.
 
Hai thuốc này đã được phát minh từ vài chục năm nay. Chúng ức chế enzym đặc hiệu neuraminidase của virus cúm nên ngăn cản được quá trình phát triển của virus.
 
Qua nghiên cứu rộng trên người lớn cũng như nghiên cứu hẹp ở trẻ em và người cao tuổi, các nhà khoa học thấy thuốc có tác dụng làm giảm khoảng 50% thời gian khởi phát bệnh, giảm các triệu chứng bệnh một cách hiệu quả hơn khi dùng các thuốc hạ sốt, giảm đau thông thường;
Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa xác định các thuốc này có tác dụng thế nào đến các trường hợp cúm đã có biến chứng.
 Ngoài ra, virus cúm cũng có khả năng kháng lại các thuốc này và có khoảng 5%-10% bệnh nhân sử dụng thuốc bị những tác dụng phụ như bồn chồn, lo âu, mất ngủ. Tác dụng phụ sẽ mất đi ngay sau khi ngưng dùng thuốc.
 
Thuốc chỉ có hiệu quả khi dùng trong vòng 72 giờ kể từ lúc bệnh khởi phát. Amantadin và Rimantadin đều có tác dụng như nhau, nhưng Rimantadin ít gây tác dụng phụ hơn; Liều dùng cho cả hai loại: mỗi ngày 200mg dùng trong 3-7 ngày, người cao tuổi và người suy thận chỉ dùng nửa liều này.
 
Việc dùng các thuốc dòng cũ để dự phòng chỉ thực hiện cho các trường hợp chưa dùng vaccin hay khi dùng vaccin không có hiệu quả.
 
Dòng mới có hai thuốc Zanamivir và Oseltamivir( Tamiflu)
 
Hai thuốc này được phát minh trong những năm 1999-2000, cũng có tác dụng ức chế enzym đặc hiệu neuraminidase của virus cúm từ đó ngăn cản quá trình phát triển của virus.
 
Trong dự phòng, Tamiflu ngăn chặn sự lây nhiễm trong gia đình và cộng đồng với hiệu lực bảo vệ khoảng 80% (Oxford J, 2004). Thử nghiệm dùng cho 402 người có tiếp xúc với người bệnh (đợt dùng 5 ngày) và 410 trường hợp ngay sau khi tiếp xúc (đợt dùng 10 ngày) trong cụm dân cư 228 hộ. Kết quả bảo vệ cho cả hộ là 58,5% và bảo vệ cho cá thể là 68%. Không thấy virus biến thể kháng thuốc.
Rất tiếc công trình không nêu rõ là thử nghiệm được thực hiện trên cúm A hay B (Hayden FG, 2004). Có tài liệu nêu rõ việc dự phòng chỉ thực hiện cho người trên 13 tuổi với liều 75mg/ ngày.
 
Tamiflu pills
 
Tamiflu làm giảm sự bài tiết dịch ở đường hô hấp, rút ngắn thời gian điều trị trung bình 1,38 ngày ở người lớn và 1,5 ngày ở trẻ em so với khi không điều trị bằng thuốc kháng cúm (Turner D, 2003).
 
Liều lượng uống được dùng cho người lớn là 75mg/ngày x 2 lần, cho trẻ em là 2-4mg/kg/ngày; Dùng trong 5 ngày. Không có sự khác nhau nào ở nhóm dùng liều 2mg/kg/ngày và nhóm dùng liều gấp đôi (Imamura T, 2003).
 
Kết quả chỉ có được nếu dùng trong 48 giờ kể từ khi bệnh khởi phát. Mỗi đợt điều trị tốt nhất là 3 ngày (vừa có tác dụng vừa giảm được chi phí do thuốc đắt). Tamiflu chỉ dùng điều trị cho những người bị cúm không biến chứng trên 1 tuổi.
 
Khoảng 9% bệnh nhân dùng thuốc bị một số tác dụng phụ như buồn nôn, ói mửa, tiêu chảy, đau bụng, nhức đầu, chóng mặt. Có thể gây co thắt phế quản đối với người có bệnh hen hay bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Chưa có dữ liệu về tính an toàn đối với thai nhi cũng như những tương tác có thể xảy ra với kháng sinh hoặc thuốc khác.
 
Đối với chủng cúm gia cầm H5N1, việc sử dụng thuốc Tamiflu trên thực tế có hiệu quả - nhưng mới chỉ ở bước đầu nên chưa thể tổng kết, cần phải có thời gian thu thập số liệu lâm sàng.
 
Tất cả các thuốc chỉ được chứng minh là có hiệu quả ở bệnh nhân mới bị cúm, chứ chưa có bằng chứng có tác dụng với những trường hợp cúm có biến chứng. Vì lý do này mà việc phát hiện sớm, dùng thuốc sớm là điều rất quan trọng.
 
Cúm A khác với những loại cúm thông thường là gây ra nhiều biến chứng như viêm hô hấp cấp, suy thận, suy gan.
Đối với những trường hợp cúm A có biến chứng, thuốc chưa rõ có đáp ứng hay không. Khi có biến chứng cần phài đưa bệnh nhân đi bệnh viện  cấp cứu  
 
Như đã trình bày, do các thuốc điều trị cúm A có tác dụng còn hạn chế, vì vậy tốt nhất vẫn cần chú ý phòng bệnh.
 
Vẳc-xin ngửa cúm
.
Mỗi dòng cúm A có kháng nguyên bề mặt H và enzym đặc hiệu N. Mỗi loại thuốc cũng có hiệu lực nhất định với một chủng cúm A cụ thể, chứ không phải có hiệu lực như nhau đối với mọi chủng cúm A
 
Vắc  xin ngừa cúm năm nay( 2012-2013) tại Hoa kỳ  gồm có một dỏng virut H1N1 có trong văc xin năm ngoái công thêm hai dòng mới  Văc xin có thễ ỡ dưới dạng thuốc chích vào bắp thịt, xit vào mũi , và dạng thuốc chích liều lượng cao dành cho các người từ 65 tuổi trở lên.
 
Fluzone Intradermal
 
 
Ngoài ta  vắcxin còn có dưới dạng mới  gọl là văc xin  “"Fluzone Intradermal"” chích dưới da với một kim nhỏ hơn cho nhửng lứa tuổi từ 18 dến 64
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét