
- ĐoànDự ghi chép Thưa quý bạn, ngay từ thời còn đi học tôi đã rất yêu thơ Quang Dũng với những câu thơ như: Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mơ
Xa quá rồi em, người mỗi ngả
Đêm nay đất nước nhớ thương nhau
Em đi áo mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào? (Đôi Bờ)
Hay quá phải không
thưa quý bạn? Và tôi cứ thắc mắc “em” đây là ai, “Đôi mắt người Sơn Tây”
là ai? Mãi đến khi nhạc sĩ Phạm Duy, bạn học cùng lớp với nhà thơ Quang Dũng,
tiết lộ, rồi mới đây, bà Akimi-Nhật (bà tên là Nhật, có biệt danh Akimi do bạn
bè đặt chứ không phải là người Nhật), hiện đang sống ở Hoa Kỳ, có gửi cho người
quen bài thơ của Quang Dũng làm tặng bà thời đó, người quen đưa lên internet,
tôi được đọc, bấy giờ mới biết “người đẹp” Akimi – cô gái con của bà chủ quán
rượu nhỏ ở Sơn Tây – chính là người đã khiến Quang Dũng viết nên những bài thơ
diễm ảo, trong đó có bài “Đôi mắt người Sơn Tây” mà sau này nhạc sĩ Phạm
Đình Chương phổ nhạc, nữ danh ca Thái Thanh hát lần đầu tiên tại phòng trà Đêm
Màu Hồng đường Nguyễn Huệ, Sài Gòn, sau đó ông Nguyễn Cao Kỳ – cũng người Sơn
Tây – bạn của nhạc sĩ Phạm Đình Chương và ban hợp ca Thăng Long, nổi hứng bèn
lên hát chung với nhạc sĩ Phạm Đình Chương trên bục sân khấu Đêm Màu Hồng.
Nay, tôi xin trình
bày hầu quý bạn về nhà thơ Quang Dũng cùng mối tình thật đẹp của ông với cô
Akimi con gái của bà chủ quán rượu ở Sơn Tây, sau đó nói về bà cụ Bùi Thị Bạch,
94 tuổi, vợ của nhà thơ Quang Dũng, hiện đang ở Nursing-home tư nhân Tuổi Vàng,
Hà Nội. Xin mời quý bạn thưởng thức.
Nhà thơ Quang Dũng
Quang Dũng sinh
năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng,tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội),
tên thật là Bùi Đình Diệm (anh ruột của Thiếu tướng Bùi Đình Đạm, QLVNCH trước
năm 75).
Trước CM tháng
8-1945, ông học Ban Trung học trường Thăng Long. Sau khi tốt nghiệp, đi dạy học
tư tại Sơn Tây.
Ông gia nhập bộ
đội Việt Minh ngay sau cách mạng tháng 8-1945 và trở thành phóng viên tiền
phương của báo Chiến đấu.
Năm 1947, ông được
điều động đi học Trường bổ túc quân sự trung cấp tại Sơn Tây. Sau khóa học, ông
được cử làm đại đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 212, Trung đoàn Tây Tiến, tức lên
vùng Tây Bắc, chỗ tam giác Việt Nam giáp với Lào và Trung Quốc (nơi có thành
phố tỉnh lỵ Điện Biên Phủ thuộc tỉnh Điện Biên hiện nay). Trong chiến dịch Tây
Tiến, ông được cử làm phó ban tuyên truyền Lào - Việt.
Cuối năm 1948, ông
làm trưởng ban tuyên huấn Trung đoàn 52 Tây Tiến rồi làm trưởng ban Văn nghệ
Liên khu III. Trong thời gian này, ông viết nhiều truyện ngắn, kịch, và triển
lãm tranh sơn dầu cùng các họa sĩ khác. Ông cũng sáng tác nhạc, bản Ba Vì
của ông rất nổi tiếng trong vùng Ba Vì, Bất Bạt. Bài thơ Tây Tiến của
ông làm năm 1948 trong khi dự Đại hội Toàn quân Liên khu III tại làng Phù Lưu,
thuộc tỉnh Hà Nam.
Năm 1951, Quang
Dũng được duyệt xét để kết nạp vào đảng Cộng sản nhưng do khai trong lý lịch
rằng trước đây từng là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng nên thế là tương lai
chấm dứt. Năm 1954, sau khi có hiệp định hòa bình Genève, Quang Dũng bị cho
giải ngũ, về làm công nhân tại nhà xuất bản Văn Nghệ Hà Nội với mức lương rất
thấp cộng với 13kg gạo/tháng và được mua bằng tem phiếu 5m vải/năm cho cả gia
đình.
Trong vụ Nhân
Văn-Giai Phẩm (bắt đầu vào tháng Giêng năm 1956, do Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ
trương, bị dập tắt vào tháng 6-1958), Quang Dũng cùng nhiều văn nghệ sĩ khác bị
“đại thi hào đồ tể” Tố Hữu khép tội phản động, đưa đi cải tạo tại Việt Bắc như
Phan Khôi, Nguyễn Tuân, Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt, Văn Cao, Hoàng Cầm
v.v..., mấy năm sau được thả về, sống trong cảnh nghèo nàn, bệnh tật. Ông mất
ngày 13 tháng 10 năm 1988 tại Bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội, sau một thời gian
dài đau ốm.
Thơ của Quang Dũng
trong thời chiến tranh Việt-Pháp, kể cả sau hiệp định Genève năm 1954 cho tới
khi ông qua đời, ở ngoài Bắc bị “ông vua uy quyền” Tố Hữu phê phán là tiểu tư
sản, ủy mị, thiếu tinh thần giai cấp, thiếu tính chiến đấu, trong khi ở trong
Nam thì lại được xuất bản, phổ biến rộng rãi và được nhiều người ưa thích. Kể
ra, các nhà thơ khác như Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh v.v... cũng bị mai mộtrồi mất âm
thầm như vậy chứ không riêng gì Quang Dũng (Nguyễn Bính sinh năm 1918 ở Nam
Định nhưng mất ở Hà Nam vào ngày 29 Tết năm Bính Ngọ 1966, trong hoàn cảnh
nghèo đói, tha phương cầu thực, lúc mất ở nhà người ta mới 48 tuổi mà thân hình
gầy gò, áo quần lôi thôi lếch thếch, trên đầu tóc rụng gần hết giống như bị
trọc).
Mãi tới thời kỳ mở
cửa (khoảng năm 1991-1992) dần dần các tác phẩm của Quang Dũng mới được đánh
giá một cách công bằng, và năm 2001, ông được truy tặng giải thưởng cấp nhà
nước về văn học nghệ thuật.
Quang Dũng là
người tài hoa, vẽ giỏi, chơi ghi-ta giỏi (ngang tầm với nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý),
hát hay, làm thơ hay. Bài thơ Tây Tiến của ông mang nét hào hùng, bi
tráng, pha chất lãng mạn,sau này được giảng dạy trong giáo trình trung học. Một
số bài thơ như Tây Tiến (Phạm Duy phổ nhạc), Đôi mắt người Sơn Tây (Phạm
Đình Chương phổ từ hai bài thơ Đôi bờ và Đôi mắt người Sơn Tây), Kẻ
ở (Cung Tiến phổ nhạc). Đặc biệt bài thơ Em mãi là 20 tuổi được 3
nhạc sĩ khác nhau phổ nhạc (Việt Dũng, Phạm Trọng Cầu, Khúc Dương), quý bạn có
thể mở Google, nghe trong website nhacuatui.com.

Thiếu tướng Bùi
Đình Đạm (1926-2009), cựu Đại tá Giám đốc Nha động viên, cựu Thiếu tướng Tư
lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh QLVNCH trước năm 75, sau 75 sống ở San Jose, Hoa Kỳ, lúc
còn sanh tiền cho biết trước khi gia nhập quân đội Việt Minh, anh ruột ông là
một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, vì vậy bị Cộng sản để ý theo dõi và vùi
dập cho đến khi chết, còn bút hiệu Quang Dũng là do anh ông rất đau khổ về việc
cậu con trai đầu lòng tên Bùi Quang Dũng bị thất lạc hay đã mất trong lúc chạy
tản cư nên lấy tên đứa con bé nhỏ tội nghiệp đó làm bút hiệu, trong bài thơ Đôi
Mắt Người Sơn Tây của anh ông có đoạn:
Mẹ tôi, em có gặp đâu không? Bao xác già nua
ngập cánh đồng Tôi có đứa con còn bé dại Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông!
Giải đáp bí ẩn
“Đôi mắt người Sơn Tây”
Quang Dũng có nhiều bài thơ trữ tình rất hay, như: Cố
quận, Đêm Việt Trì, Tây Tiến, Đôi bờ, Đôi mắt người
Sơn Tây, Đường trăng v.v... nhưng Đôi mắt người Sơn Tây là
bài thơ nổi tiếng và được nhiều người hâm mộ nhất. Thi phẩm nói lên cuộc gặp gỡ
của nhà thơ với người con gái trong thời loạn lạc, một thoáng quen biết rồi
chia tay giã biệt trong cuộc tình buồn, ngắn ngủi: Em ở
thành Sơn chạy giặc về Tôi từ chinh chiến mới ra đi Cách
biệt bao lần quê Bất Bạt Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
“Em ở thành Sơn chạy giặc về”, như vậy người con gái này quê ở
Sơn Tây, nhưng nàng là ai, tên gì, họ gì, làm nghề gì, gia đình ra sao và bao
nhiêu tuổi?
Theo nhạc sĩ Phạm
Duy, bạn học cùng lớp với Quang Dũng tại trường Thăng Long, Hà Nội - Quang Dũng
ngồi phía sau Phạm Duy cách hai bàn. Ông to con, nước da trắng, thân hình rắn
rỏi, khỏe mạnh, đẹp trai, trông như Tây nhưng rất hiền lành. Lúc Quang Dũng còn
là đại đội trưởng trong Trung đoàn Tây Tiến đóng ở Hòa Bình thì Phạm Duy cũng ở
trong ban Văn công hoạt động tại đấy. Quang Dũng được nghỉ phép về thăm gia
đình ở làng Phùng Xá thuộc tỉnh Hà Đông, cách Hà Nội khoảng 40 cây số, gần với
Sơn Tây (sau này Hà Đông và Sơn Tây nhập lại thành tỉnh Hà Tây, bây giờ cả hai
nhập vào Hà Nội), nơi có con sông Đáy đẹp như tranh vẽ. Từ Hòa Bình ở phía Nam
đi lên phía Bắc về Hà Đông phải đi qua Sơn Tây, anh tạt qua nơi có tên là Kinh
Đào ở gần chợ Đại, thăm người yêu tên Nhật. Do nàng tên “Nhật”, lại đẹp như
người Nhật nên bạn bè thường gọi đùa là “Akimi”. Bà mẹ Akimi khi chạy tản cư từ
thị xã Sơn Tây xuống Kinh Đào, có mở một quán cà phê nhỏ để buôn bán tạm, Quang
Dũng mỗi lần về ngang qua quán thường hay ghé uống. Nàng chính là “người đẹp
Sơn Tây”, nguồn cảm hứng cho Quang Dũng làm “Đôi mắt người Sơn Tây” đầy
cảm xúc:

Qua thơ, người
thưởng thức vẫn thấy một bóng hình đẹp lãng mạn của người con gái mặc dầu không
biết mặt. Có lần Phạm Duy cùng Quang Dũng đi xe đạp về chợ Neo, hai người chạy
song song trên đường làng. Thi sĩ kể về mối tình của mình với người đẹp Akimi
và đọc lên bài thơ tặng nàng:
Thương nhớ ơ hờ thương nhớ
ai Sông xa từng lớp lớp mưa dài Mắt kia em có sầu
cô quạnh Khi chớm heo về một sớm mai (Đôi Bờ) Sau
này, chiến tranh lan rộng, Akimi theo mẹ về thành phố, bỏ lại người xưa, tan vỡ
một mối tình.
Tới năm 1954, nàng
di cư vào Nam,
sống tại Sài Gòn, đã một thời là kiều nữ của Nhà hàng Tự Do, đến năm 1975 sang
Mỹ định cư. Nàng đi để lại cho Quang Dũng một nỗi nhớ ơ hờ, chỉ biết:
Em đi áo mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào...
Bài thơ càng nổi
tiếng ở Miền Nam hơn khi nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc rất hay, trở thành
phổ biến qua giọng ca truyền cảm của nữ danh ca Thái Thanh và sau đó là danh ca
Duy Trác. Có người ngạc nhiên khi thấy nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ một lượt
hai bài thơ trong cùng một bản nhạc, đoạn đầu lấy bài Đôi Bờ, đoạn sau
là phần chính thì lấy bài Đôi mắt người Sơn Tây, rất độc đáo, hiếm thấy
trong âm nhạc.
Như vậy, chính “người đẹp” Akimi Nhật là nguồn cảm
hứng cho những bài thơ bất tử của Quang Dũng, và Phạm Đình Chương là người đã
chắp cánh cho thơ Quang Dũng bay cao, bay xa mãi trong lòng người...
Người vợ của thi sĩ hiện nay
Phần sau này được
trích từ bài viết của nhà báo Trần Hoàng Thiên Kim ở Việt Nam viết về chuyến
viếng thăm bà cụ Bùi Thị Thạch, vợ nhà thơ Quang Dũng hiện đang ở “Nhà Tuổi Vàng”,
một ngôi nhà nho nhỏ dùng làm viện dưỡng lão tư nhân. (ĐD)
Trước khi đến đây
tôi vẫn đinh ninh Nhà Tuổi Vàng là một trung tâm to lớn, nằm trong khuôn viên
rộng có vườn cây thoáng mát để hằng ngày các cụ đi dạo hoặc ngắm cảnh như nhiều
trung tâm khác tại Hà Nội tôi đã có dịp viếng thăm. Khi đến đây rồi tôi mới
biết Tuổi Vàng là một căn nhà nho nhỏ nằm trong khu dân cư Linh Đàm, được chị
Bình thuê để mở nhà dưỡng lão. Vì diện tích hẹp nên hiện nay nhà chỉ có 9 cụ ở.
Chị cho biết chị sắp mở thêm một Nhà Tuổi Vàng thứ 2 cũng gần đây để tiện chăm
sóc.
Tôi lên tầng trên
gặp cụ Bùi Thị Thạch. Năm nay cụ 94 tuổi, vợ của nhà thơ Quang Dũng. Căn phòng
rộng chừng hơn 10 mét vuông nhưng khá thoáng vì có cửa sổ mở ra bên ngoài. Cô
Huyền, người trông nom cụ, quê ở Phú Xuyên, Hà Nội, vừa đưa bánh bích quy cho
cụ ăn vừa cho tôi biết: “Cụ Thạch ăn uống giỏi lắm, bánh quy của chị Bùi Phương
Thảo là con gái cụ gửi vào đấy. Cụ ăn thoáng cái là hết”. Rồi chị ngồi xuống
bên cạnh cụ, vuốt tóc, chải đầu cho cụ: “Chị coi, 94 tuổi mà da dẻ cụ hồng hào
như thế này đấy. Hồi trẻ chắc cụ đẹp hết sức. Cụ ăn uống được lắm, ngày ba bát
cháo hết vèo chưa kể các đồ ăn vặt. Cái gì cụ cũng ăn được, kẹo cứng thì cụ
ngậm, lấy lưỡi đưa đẩy một lúc lâu cho tan rồi xin cái khác”. Chị kể tiếp: “So
với cách đây 5 năm khi mới vào Nhà Tuổi Vàng thì bây giờ cụ già yếu hơn nhiều.
Hầu như cụ không còn nhận ra người chung quanh kể cả chị Thảo là con gái cụ.
Tuần nào cứ đến cuối tuần là chị Thảo vào thăm mẹ nhưng có lúc cụ nhận ra, có
lúc không. Cụ thường lẩm bẩm khe khẽ một mình rồi vỗ vỗ hai tay vào nhau hay
mân mê cái chăn, cái gối. Cụ không đi lại được vì ảnh hưởng của chân bên trái
bị gãy do ngã cách đây mấy năm khi chưa vào nhà dưỡng lão”.
Tôi hỏi cụ khá
lớn: “Cụ còn nhớ nhà thơ Quang Dũng chồng cụ không ạ?” Cụ ngớ ra, mắt như nhìn
đi đâu đâu và đang nghĩ tới việc gì: “Ông Dũng ấy à? Có chứ! Mãi không thấy ông
ấy về, sốt cả ruột. Kỳ này ông ấy đi đâu lâu thế, chắc viết lách nhiều”. Tôi
được biết ngày trước cụ là một thợ đan len rất giỏi, thậm chí nhờ hai bàn tay
khéo léo ấy mà cụ đã nuôi được 5 người con ăn học nên người, ngoại trừ cậu con
trai đầu lòng bị thất lạc từ nhỏ trong khi chạy tản cư: “Cụ còn đan len được
không ạ?” Cụ giương mắt nhìn tôi: “Đan hả? Làm gì có len mà đan. Muốn đan phải
mua len tốt ở Hà Nội. Chạy tản cư thì chả có len tốt được”. Cụ im lặng một lát
rồi lại vỗ vỗ hai tay vào nhau, đầu óc để tận đâu đâu coi như không có tôi ngồi
đấy.
Cô Huyền cho biết
cụ Thạch là một trong những cụ già hiền lành nhất trong Nhà Tuổi Vàng. Tối đến,
uống thuốc xong là cụ ngủ một mạch cho đến 2 - 3 giờ sáng. Hầu hết các cụ ở đây
đều bị lẫn. Cụ Thạch tuổi cao đã đành, có những cụ chỉ mới ngoài 60 - 70 nhưng
xem ra còn nặng hơn. Đang đêm, nhiều cụ tỉnh dậy nói một mình như đang đối đáp
với người khác, la hét hoặc đi lại trong nhà.

(H.5 : cô Bùi Phương
Thảo)
Sau khi đến thăm
cụ Thạch, tôi tới thăm, trò chuyện với chị Bùi Phương Thảo, con gái út của cụ.
Chị hiện là hiệu phó trường Tiểu học Võ Thị Sáu, Hà Nội. Không chỉ bận rộn công
việc ở trường, chị còn thay mặt người cha quá cố của mình làm Trưởng ban Liên
lạc Hội cựu chiến binh Trung đoàn 52 Tây Tiến và là thành viên ban chủ nhiệm
Câu lạc bộ Văn nghệ xứ Đoài. Tất bật với các công việc nhưng chị vẫn tranh thủ
thời gian trò chuyện với tôi. Tôi kể chuyện mới gặp cụ Thạch ở Nhà Tuổi Vàng,
chị nói: “Thật ra thời gian đầu cụ cũng không muốn ở nhà dưỡng lão đâu. Khóc
suốt đấy. Hễ thấy con cái đến là cụ năn nỉ: “Cho mẹ về nhà đi, mẹ nhớ nhà lắm”.
Nhưng rồi mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, nên tôi cố động viên mẹ ở lại để
tiện việc thuốc men, chăm sóc. Bây giờ thì cụ lẫn hết cả rồi. Tuần nào tôi cũng
vào thăm, ngồi chơi với cụ một lúc rồi lại phải về bù đầu với công việc. “Cụ
yếu thế, có bao giờ các anh các chị có ý định đưa cụ về nhà không? Nói dại mồm
dại miệng chứ chẳng may cụ trăm tuổi, không gặp được con cháu?” Chị Thảo bùi
ngùi: “Mấy anh em chị em chúng tôi cũng có nghĩ đến. Vợ chồng người anh thứ hai
tức anh lớn nhất của chúng tôi ở Thái Nguyên, rất xa trung tâm y tế, nếu cụ ở
với anh chị ấy những lúc trái gió trở trời thì biết làm sao. Hồi trước cụ ở với
người anh thứ nhì của chúng tôi cũng ở Hà Nội nhưng bây giờ anh ấy mất rồi, chị
dâu đã hưu trí còn các cháu thì mắc đi học, không trông nom được. Hai chị gái
tôi thì ở trong Nam,
còn tôi tuy ở gần đây nhưng nhà là nhà tập thể, bé tí tẹo, chật chội, lại ở mãi
trên tầng 3, tôi ở trong trường suốt ngày, đưa cụ về thì mình phải thuê ôsin
trông nom cho cụ, đâu có tiền. Đành phải để cụ ở trong Nhà Tuổi Vàng vậy thôi,
nếu chẳng may cụ có trăm tuổi thì trong ấy họ gọi điện thoại, mình chạy đến
ngay cũng được”.

(H.6 : anh Bùi Quang
Vinh)
Kết luận của Đoàn
Dự:
Nhà thơ kiêm họa
sĩ H.H.Trang năm nay 76 tuổi, nói chuyện với tôi rằng bà Vũ Hoàng Chương (nhũ
danh Đinh Thục Oanh, chị ruột của nhà thơ Đinh Hùng) lúc sắp mất tội nghiệp
lắm, nằm suốt hơn 2 năm trời do tai biến mạch máu não, lưng lột cả ra mà nhà
lại nghèo, có người con trai tên Vũ Hoàng Tuân nhưng cũng nghèo, mắc đi làm tối
ngày nên chị (H.H.Trang) phải lui tới trông nom săn sóc giùm cho tới khi bà
mất. Tôi nghiệm ra, làm nhà thơ thời nào cũng vậy, ai cũng nghèo chứ chẳng ai
giàu, còn làm vợ nhà thơ thì lại càng khổ hơn, lúc nghèo đâu có đem thơ ra mà
ăn được. Chỉ làm... người yêu của nhà thơ là tốt hơn cả, yêu nhau tha thiết,
trở thành nguồn cảm hứng của “chàng”, sau đó trời bắt chia tay mỗi người mỗi
ngả, nhớ nhau suốt đời có lẽ lại hay. Con cá vuột mất bao giờ cũng lớn hơn con
cá bắt được. Bởi vậy nhà thơ Hồ Dzếnh viết: “Tình chỉ đẹp những
khi còn dang dở. Đời hết vui khi đã vẹn câu thề”, kể ra cũng đúng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét