Không, cuộc tấn công Biển Đông của Bắc Kinh không phải là vì dầu và cá…
bình luận
Philip Bowring
HONG
KONG – Xung đột gần đây đã leo thang
giữa Trung Quốc và các nước láng giềng Đông Nam Á vì những bãi đá, đá ngầm, bãi
cát ngầm và những hòn đảo nhỏ ở Biển Đông.
Tuần
trước, Hà Nội công bố đoạn băng video cho thấy tàu của họ bị tàu Cảnh sát biển
Trung Quốc đâm vào khi Việt Nam ngăn chặn không cho Trung Quốc hạ giàn khoan
ngoài khơi bờ biển miền Trung Việt Nam. Trung Quốc cũng phản đối Philippines ngày
9 tháng 5 đã bắt giữ ngư dân Trung Quốc ở bãi cát ngầm ở 60 dặm ngoài khơi bờ
biển phía tây nam TQ nơi có loại rùa biển lớn, loài có thể bị diệt chủng.
Thoạt
nhìn, các vụ đụng độ có vẻ như một cuộc tranh giành năng lượng và nguồn lợi
thủy sản, và thường được đưa tin như vậy.
Nhưng
các vụ xung đột đó quan trọng hơn thế rất nhiều.
Thềm
lục địa chắc chắn có khoáng sản đã được những quốc gia liên hệ khai thác ngoài
bờ biển của họ. Trong khi đáng kể về mặt kinh tế cho Malaysia và Việt Nam, nó
không có khả năng mang lại nguồn tài nguyên quan trọng đối với Trung Quốc.
Thay
vào đó, tầm quan trọng của lãnh thổ chính là về mặt chiến lược đối với Bắc
Kinh. Như vậy, đây là một vấn đề có tầm quan trọng rất lớn đối với
Hoa Kỳ – vì họ đã nhấn mạnh rằng vùng biển này là một phần của vùng biển quốc tế – và với các quốc gia khác như
Nhật Bản, biển tại đây là đường nối quan trọng với phương Tây, Trung Đông, và
phần lớn của miền Nam và Đông Nam Á.
Thực
vậy, hai ngàn năm qua vùng biển này là một động lực phát triển thương mại toàn
cầu một mặt bằng cách nối liền Trung Quốc, Đông Bắc Á, các đảo quốc nhiều gia
vị và rừng trong vùng Đông Nam Á, và mặt khác nối liền các nước Ấn Độ, Iran,
thế giới Ả Rập, Tây Âu và Châu Phi.
Tuyên
bố chủ quyền của Trung Quốc bằng đường chín đoạn (dash nine line) trên
bản đồ và trong sổ thông hành TQ, mở rộng về phía nam khoảng 1.080 hải lý (hoặc
18 vĩ độ ) từ bờ biển TQ xuống gần tới Borneo của Malaysia, và bao trùm gần như
tất cả các vùng biển giữa Việt Nam và Philippines. Không liên tục, và đặc biệt
là trong hai năm qua, Trung Quốc đã dùng vũ lực để khẳng định tuyên bố chủ
quyền này.
Chắc
chắn, Trung Quốc chưa ở vị trí để tranh cãi về quyền sử dụng vùng biển này cho
giao thương quốc tế và có thể sẽ không bao giờ làm như vậy. Tuy nhiên tuyên bố
chủ quyền trên gần như tất cả các đảo, đá, xung quanh và Trung Quốc sau đó
tuyên bố chủ quyền vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) trong vòng 200 hải lý
theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS). Làm như thế, họ đã
đương nhiên biến biển Đông Nam Á thành một cái “hồ của Trung Quốc.”
Việt
Nam là một điểm ngắm trước mắt vì ở bên cạnh và lịch sử kháng chiến chống Trung
Quốc.
Những
sự kiện gần đây là một lời nhắc nhở cho người Việt Nam về cuộc xâm lược biên giới
phía bắc của Trung Quốc vào năm 1979, và cuộc xâm lăng quần đảo Hoàng Sa vào
năm 1974, và chính quần đảo này bây giờ là lý cớ để Trung Quốc khoan dầu trong
vùng biển ngoài khơi Đà Nẵng nơi mà Việt Nam coi là thuộc vùng Đặc quyền Kinh
tế của mình. Trung Quốc cũng muốn giành giữ hải trình từ căn cứ tàu ngầm của họ
ở đảo Hải Nam.
Philippines
là một mục tiêu vì Trung Quốc coi Philippines là nước yếu. Gây áp lực với
Philippines cũng là một cách để Trung Quốc thử thách cam kết của Mỹ với thuộc
địa cũ. Năm ngoái
Trung Quốc chiếm bãi cạn Scarborough, mang sự lực lượng hải quân đến trong vòng
110 hải lý quanh Subic Bay, đã là trọng tâm của sức mạnh hải quân Mỹ trong khu
vực và có thể sẽ là căn cứ của Mỹ trong tương lai.
Hành động của Trung Quốc đã đưa đến một thỏa thuận
hợp tác quốc phòng giữa Mỹ và Philippines mới ký kết trong chuyến viếng thăm
Manila gần đây của Tổng thống Obama. Các nước khác như Malaysia và Indonesia
cũng đang nâng cấp liên minh quân sự của họ với Mỹ.
Nhưng không ai biết chính sách “xoay trục” của Mỹ
tại châu Á sẽ đi xa cỡ nào. Mỹ đã tuyên bố trung lập về những tuyên bố chủ
quyền biển đảo bất chấp sự thật rằng không có đảo nào có cư dân và gần như tất
cả những hòn đảo đó đều nằm gần các nước khác hơn Trung Quốc.
Đối với các nước láng giềng trên biển, hành động
của Trung Quốc là nhằm nắm quyền bá chủ trên một khu vực mà các quốc gia trước
đây đã phải triều cống cho hoàng đế ở Bắc Kinh. Thực ra việc triều cống thời xưa là để phát triển thương mại chứ không
phải là để xác nhận chủ quyền.
Nhưng việc “triều cống” đó lại làm cho giới lãnh
đạo ngày càng theo chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc tin rằng Trung Quốc không chỉ
đơn thuần là nước lớn hơn nhiều so với các nước láng giềng nhưng còn vượt trội
về mặt văn hóa và chủng tộc. Trung Quốc đưa việc thủy thủ của họ đã đến bãi cạn
Scarborough hàng trăm năm trước làm bằng chứng cho tuyên bố chủ quyền ở đó.
Sự kiện các sắc tộc Mã Lai ở những vùng bây giờ là
Việt Nam, Philippines và Indonesia đã đi thuyền đến những vùng biển này trước
dân Trung Quốc đều không được bàn đến.
Người Tầu thường ngang ngược tuyên bố thẳng thừng
các chủng tộc láng giềng toàn là bọn người man rợ (barbarians) không có văn
hoá, chỉ có Trung Hoa là cái rốn của vũ trụ, con người văn minh nhất thế giới.
Nhưng dù oán giận với Trung Quốc lên cao, trong
thực tế người ta không thể làm khác gì khác ngoài việc lên tiếng tố cáo trước
quốc tế và nâng cấp khả năng tự vệ. Các quốc gia liên quan tổng cộng có gần 500
triệu dân nhưng không thống nhất về mục đích và ngày càng lệ thuộc về thương
mại và đầu tư của Trung Quốc.
Trung Quốc từ chối thảo luận tranh chấp khác hơn
cách song phương.
Việt Nam đang bị kẹt giữa bản năng dân tộc và một
đảng Cộng Sản đang bắt chước Trung Quốc trong việc tự do hóa nền kinh tế nhưng
vẫn giữ độc quyền về mặt chính trị.
Malaysia đã chấp nhận cúi đầu, hy vọng rằng Trung
Quốc sẽ để yên cho mình và lo ngại rằng Trung Quốc có thể tìm cách can thiệp
cho dân thiểu số người Hoa tại đây.
Indonesia đã, cho đến gần đây, tránh đối đầu với
Trung Quốc, để được coi là nước dẫn đầu khối ASEAN (10 thành viên Hiệp hội các
Quốc gia Đông Nam Á). Mặc dù từ năm 2000 Trung Quốc và ASEAN đã thảo luận về
quy tắc ứng xử để đối phó với vấn đề đề tranh chấp biển, nhưng không có thành
quả thực sự – vì Trung Quốc không muốn có.
ASEAN vẫn chia rẽ vì lợi ích của những quốc gia
ven biển và những nước khác, đặc biệt là Lào và Campuchia, hai nước lúc nào cũng phản đối
việc chỉ trích Trung Quốc. Singapore,
đảo quốc phần lớn là người gốc Hoa, thường là một đồng minh thân cận của Mỹ,
cũng cố vấn ASEAN nên “trung lập” – một
mật mã có nghĩa là đừng xúc phạm đến Trung Quốc.
Không nước nào theo bước của Philippines năm ngoái
đã đưa vụ tranh chấp ra Tòa Hòa giải Thường trực tại Hague, cho rằng hành động
của Trung Quốc đã vi phạm UNCLOS. Trung Quốc đã từ chối tham gia. Phán quyết
của Hague có thể sẽ không có trước năm 2015. Và người ta cũng chưa rõ rằng tòa
án ở Hague sẽ chấp nhận rằng họ có thẩm quyền hay không.
Một phán quyết có lợi cho Philippines chắc chắn sẽ
khuyến khích các quốc gia khác. Cũng có thể, như trong quá khứ, Trung Quốc sẽ
tạm tránh xung đột với các nước láng giềng và chờ đợi một vài năm trước khi
chiếm thêm một bãi đá hoặc bãi cạn hoặc dựng một giàn khoan gần bờ biển của họ.
Nhưng Biển Đông sẽ vẫn là một vấn đề lớn trong mối quan hệ của Trung Quốc với
các nước láng giềng và cấu hình quyền lực trong khu vực Đông Á.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét