Những thăng trầm trong quan hệ Việt - Trung
Trong mối quan hệ lịch sử với
Trung Quốc, Việt Nam luôn thể hiện tinh thần tự cường khi ở bên cạnh một nước
lớn, ông Dương Danh Dy, cựu Tổng lãnh sự Việt Nam tại Trung Quốc, chia sẻ với
VnExpress.
|
|
- Quan hệ Việt Nam – Trung
Quốc có những mốc nào đáng chú ý, thưa ông?
- Thời kỳ 1945-1954 chủ yếu là
Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam, cả về quân sự và kinh tế. Trung Quốc cử nhiều
chuyên gia sang Việt Nam tham gia các chiến dịch biên giới, trang bị vũ khí,
kinh nghiệm đánh. Quân đội chúng ta trưởng thành nhiều từ việc học hỏi Trung
Quốc cách chia tổ mà đánh, diệt lô cốt, diệt xe thiết giáp của địch.
Về kinh tế, sự nghiệp xây dựng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc của chúng ta được Trung Quốc hỗ trợ gang thép Thái
Nguyên, nhà máy Cao – Xà – Lá, Hồng Hà, hóa chất Việt Trì, các nhà máy xay
xát….
Ngược lại, Việt Nam cũng giúp đỡ
Trung Quốc khá nhiều. Trong cuốn sách Phát triển quan hệ Việt - Trung 40 năm,
tác giả Trung Quốc thừa nhận từ năm 1946 đến 1950, Việt Nam đã phái quân sang
giúp Trung Quốc đánh Quốc dân đảng ở sát biên giới, tiếp tế lương thực cho quân
đội Trung Quốc.
Có nguồn tin cho hay lúc ông Mao
Trạch Đông khi đưa đoàn cố vấn quân sự sang giúp đỡ Việt Nam, đã nói rằng là để
“trả món nợ mà cha ông đã mang với Việt Nam”. Lúc đó, tôi nghe cảm thấy rất cảm
động.
Năm 1952, khi một đoàn của Việt
Nam sang Trung Quốc cảm ơn bộ Giao thông Trung Quốc đã giúp Việt Nam các con
tàu không số vận chuyển hàng từ Bắc vào Nam, họ trả lời: “Không, Việt Nam giúp
đỡ chúng tôi trước”.
Cố Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân
Lai, trong lần đầu đến thăm Việt Nam đã đến thăm đền Hai Bà Trưng, chứng tỏ họ
biết rằng họ có lỗi với nhân dân và đất nước Việt Nam.
Thời kỳ Việt Nam chống Mỹ, Trung
Quốc cũng giúp đỡ rất nhiều, hầu như tất cả thóc gạo, lương thực, hàng tiêu
dùng, vải vóc đều do họ cung cấp.
Tuy nhiên, giai đoạn sau năm
1975, khi Việt Nam thống nhất toàn lãnh thổ, lại là giai đoạn căng thẳng giữa
hai bên. Một phần nguyên nhân là do Việt Nam đưa quân đội sang Campuchia, đánh
đuổi Pôn Pốt, nên Trung Quốc không hài lòng.
Thời kỳ này, Việt Nam gặp nhiều
khó khăn do Trung Quốc tác động đến việc các nước phương Tây bao vây, cấm vận,
cho rằng Việt Nam vi phạm dân chủ. Kinh tế Việt Nam điêu đứng, nhân dân lầm
than vì thiếu đói, ngoại tệ không có.
Đến năm 1991, Việt Nam và Trung
Quốc bình thường hóa quan hệ. Hiện nay Việt Nam đang thể hiện sự độc lập chính
trị và tự chủ về kinh tế, lập quan hệ ngoại giao với tất cả các nước trên thế
giới, không bị ai bao vây, cấm vận như thời kỳ trước. Việt Nam đang có vai trò
đáng kể trong khu vực và thế giới.
- Những sự kiện nào ông
cho là đánh dấu nốt “trầm” trong quan hệ hai nước?
- Khi hội nghị Geneva diễn ra
tại Thụy Sỹ năm 1954, nhằm tìm ra giải pháp hòa bình cho Đông Dương, Trung Quốc
được mời tham dự với tư cách một nước lớn ở châu Á. Lúc đó Trung Quốc đã đưa
Việt Nam ra để dùng làm con bài nhằm nâng cao vị thế của họ lên với phương Tây
và chính quyền miền nam Cộng hòa. Phó Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng lúc đó
phản đối kịch liệt và làm lộ rõ âm mưu của Trung Quốc.
Thời kỳ 1967 -1968, khi Việt Nam
đang lên kế hoạch đàm phán Hiệp định Paris với Mỹ nhằm chấm dứt chiến tranh,
Trung Quốc đã tìm nhiều cách để ngăn cản Việt Nam tham gia. Tôi nhớ khi đó, một
thứ trưởng phụ trách Việt Nam của Trung Quốc đã mời toàn thể nhân viên ở đại sứ
quán Việt Nam tại Bắc Kinh, trong đó có tôi, đến dự chiêu đãi, nhằm khuyên nhủ
Việt Nam không tham gia.
Năm 1974, lợi dụng tình hình ở
miền Nam Việt Nam và thế giới, hải quân Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Năm 1988, một lần nữa Trung Quốc gây ra trận
hải chiến trên đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Đáng kể nhất, năm 1979, Trung
Quốc bất ngờ đưa 60 vạn quân tấn công vào biên giới phía Bắc Việt Nam với luận
điệu “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Trong những trận chiến này, Việt
Nam đều thể hiện tinh thần quyết chiến, đẩy lui lực lượng của Trung Quốc.
- Ông đánh giá thế nào việc
Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 ở vùng thềm lục địa của
Việt Nam?
- Đây là một bước leo thang mới cực
kỳ nguy hiểm của Trung Quốc. Cùng lúc Trung Quốc thực hiện hai mục tiêu. Đó là
xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và tài phán của Việt Nam và bắt tay vào
thăm dò tài nguyên ở Biển Đông. Biển Đông có vai trò rất quan trọng với Trung
Quốc, nước này sau 30 năm phát triển như vũ bão đang đối diện với nguy cơ cạn
kiệt tài nguyên trên đất liền. Bên cạnh đó, nội bộ Trung Quốc cũng có những bất
ổn.
- Ông dự báo điều gì sẽ xảy
ra tiếp sau đây?
- Trung Quốc tuyên bố là sẽ rút
giàn khoan về vào giữa tháng 8 tới, nhưng tôi cho rằng họ không chịu rút lui
một cách lặng lẽ êm xuôi. Họ sẽ còn gây sự nữa. Khó có thể dự báo những diễn
biến cụ thể trên Biển Đông, nhưng chắc chắn ý đồ của Trung Quốc là chiếm trọn
Biển Đông. Có ai dám chắc Trung Quốc không chiếm những đảo không có người ở
Biển Đông không? Mưu đồ độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc là rất rõ.
- Vậy Việt Nam phải làm gì
để đối phó?
- Chúng ta tôn trọng vai trò
nước lớn của Trung Quốc nhưng chúng ta không sợ họ. Ngày xưa cũng vậy, cha ông
chúng ta từng bị thống trị 1.000 năm Bắc thuộc, nhưng chúng ta vẫn nổi dậy, bởi
vì chúng ta có chính nghĩa. Thời Nhà Minh của Trung Quốc, họ đánh sang nước ta
là do nội bộ ta mất đoàn kết nên họ có cớ vào. Nhưng bây giờ chúng ta trên dưới
một lòng, toàn dân đoàn kết thì không sợ gì cả.
Hơn nữa, như năm 1979, lúc đó
điều kiện kinh tế của Việt Nam khó khăn, dân đói ăn, chúng tôi đi công tác mà
phải tiết kiệm từng xu ngoại tệ. Khác hẳn với bây giờ, chúng ta đi đâu cũng có
bạn, ai cũng muốn giao thiệp với Việt Nam.
Mới đây Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng đã có một loạt phát ngôn mạnh mẽ về lập trường của Việt Nam tại Myanmar và
Philipines. Thủ tướng đã thể hiện mong muốn của người dân là phát huy truyền
thống của cha ông, tôn trọng Trung Quốc nhưng vẫn cương quyết bảo vệ chủ quyền
của mình.
Việt Anh (thực
hiện)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét