Màn kịch độc ác và tàn nhẫn!
Thái
độ và hành động đáng ngờ
Trong con mắt của
những người dân Việt Nam mộc mạc vốn thừa mứa
lòng tin, người ta sẽ nghĩ rằng sau cuộc khốc liệt
1979 trên toàn tuyến biên
giới, Việt Nam thấm đòn đau từ anh bạn láng giềng
to xác quen ăn hiếp và bắt
nạt thì tưởng như sẽ không bao giờ có thể ngoái
đầu quay lại với những kẻ thù
tàn bạo, quay quắt mà chính họ đã nguyền rủa. Thế
nhưng cả dân tộc không ngờ,
cả dân tộc đã bị dồn vào một khúc quanh đau đớn
nhất của lịch sử: Giai đoạn nô lệ ngoại bang.
Theo dõi thái độ và
cách hành động của nhà cầm quyền Việt Nam
mấy năm nay với chủ đề lãnh thổ của Tổ Quốc, nhất
là thái độ với bọn bá quyền
cướp nước, có lúc thăng, lúc trầm, nhưng tất cả
đều nhất quán và không có mấy
thay đổi. Đường lối, cách nghĩ của đảng CS vẫn
thế, tất cả đều đi đúng một định
hướng đã vạch sẵn: Lấy thù làm bạn, hèn
với giặc, ác với dân.
Thông thường, một
chính phủ, một nhà nước, một đảng lãnh đạo xã
hội, luôn lấy sự an nguy của quốc gia, an ninh của
dân chúng, bảo toàn lãnh thổ
của đất nước làm trọng, mọi nhân tài, vật lực đều
được ưu tiên tập trung cho
những nhiệm vụ chính yếu đó. Thế nhưng, riêng ở
Việt Nam, mọi điều đã được thực
hiện ngược lại.
Nhà nước không dùng
quân đội để bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ nhân dân
mà người ta quy định rằng trước hết, quân
đội phải bảo vệ Đảng. Rồi mặc cho dân bị kẻ
thù, bị ngoại bang giết chết
trên đất nước, quân đội được huy động đi cướp đất
của dân và luyện tập để
“chống diễn biến hòa bình”. Thậm chí, người
đứng đầu quân đội luôn miệng gọi kẻ thù là đồng
chí, tỏ rõ sự hàm ơn nặng nề kẻ
thù của đất nước, ngay cả khi kẻ thù đã và đang
xâm chiếm lãnh thổ.
Nhà nước bơm phình
lực lượng công an không với mục đích phục vụ
nhân dân, mà họ huỵch toẹt thách thức là “còn
đảng, còn mình”. Hẳn nhiên họ
không nhắc lực lượng này rằng người nuôi họ là
dân.Lực lượng này được huy động
đàn áp, canh giữ, bắt bớ và gây sự với những người
có mầm mống tư tưởng yêu
nước. nhà nước bỏ tù những tiếng nói can đảm, dám
thể hiện lòng yêu nước,
thương nòi của mình.
Họ tạo
ra một thế hệ vô cảm với những điều thiêng liêng
nhất, ngộ độc thông tin nặng
nề nhất, thậm chí dùng đám hồng vệ binh đó đi
đàn áp, khủng bố những người
yêu nước.
Kết quả là lòng yêu
nước bị dập tắt, tinh thần yêu nước bị đánh
tan tác và hạ xuống đến mức thấp chưa từng có.
Hoảng
loạn, lúng túng
Có thể nói, kể từ
khi người Cộng sản Việt Nam cướp quyền lãnh
đạo đất nước này đến nay, cái gọi là “độc lập”
đúng nghĩa chưa bao giờ xuất
hiện. Việt Nam luôn kêu gào “độc lập, tự
do” nhưng thực tế thì hết đu bám thế lực này lại
sang bám thế lực khác.
Nếu như sau Tháng
8/1945 trở đi, khối cộng sản nẩy nở, sinh sôi,
những người cộng sản Việt Nam tự nguyện làm một bộ
phận “tiền tiêu, tuyến đầu”
cho CNCS để tiến hành cuộc chiến Nam – Bắc đẫm máu
vì ý thức hệ. Khi đó, trừ vài
nước “cộng sản anh em”, còn tất cả đều là “bè lũ
đế quốc và bọn phản động, chó
săn, sen đầm quốc tế”. Thì đến khi nội bộ khối
Cộng sản lục đục chia rẽ nặng
nề, những người Cộng sản Việt Nam nhanh chóng tách
khỏi anh bạn Trung Cộng để
tìm đến Liên Xô là “thành trì của CNXH”. Khi đó,
hệ thống truyền thông Việt Nam
đã không tiếc bất cứ một lời lẽ, ngôn từ nào dù
bẩn thỉu, xấu xa nhất lên án
anh chàng Trung Cộng Đại hán đã chệch hướng, lạc
đường, phản bội lại “Mác –
Lênin chân chính”.
Thế rồi, cuộc chiến
1979 trên biên giới Việt – Trung đã thể hiện
sự cạn nghĩa, ráo tình và sự tráo trở của những
người cộng sản ra sao. Tưởng từ
nay, cái gọi là “môi hở răng lạnh” sẽ không bao
giờ được nhắc tới, cái gọi là
“anh em, hữu nghị, láng giềng” đối với Trung Cộng
sẽ vĩnh viễn biến mất trên
mọi lĩnh vực đời sống xã hội khi vẫn còn người
Cộng sản Việt Nam cai trị đất
nước.
Nhưng, trớ trêu
thay, vật đổi sao dời. Những biến động của Đông
Âu về sự sụp đổ hàng loạt khối cộng sản mà không
một thế lực nào đỡ nổi như một
quy luật. Cái bức tường, cột trụ mà những người
cộng sản Việt Nam tưởng rằng
luôn bền vững, chắc chắn bỗng chốc sụp xuống nhanh
chóng không ngờ. Thế là từ
đó, bỗng chốc cái thần thái độc lập, tự chủ và sự
tự tin “bách chiến, bách
thắng” của những người Cộng sản Việt Nam nhanh
chóng bay biến.
Và họ hoảng loạn
thật sự.
Theo đúng nguyên lý
của Chủ nghĩa Mác – Lenin thì “giai cấp
thống trị không bao giờ để mất quyền thống trị của
mình, nếu không có bạo lực
cách mạng”. Vì thế, họ đã ra sức để bằng mọi cách
củng cố, bám giữ lấy chiếc
ghế cai trị của mình.
Một trong những cách
đó là
đổi thù thành bạn, tất nhiên chỉ là
bạn của Đảng, còn với cả đất nước này thì kẻ xâm
lược truyền kiếp kia chẳng bao
giờ thay đổi bản chất và quan hệ. Rồi Hội
nghị Thành Đô, (một hành động
chính trị lén lút mới được bạch hóa gần đây) đã
diễn ra trong hoàn cảnh đó.
Kể từ
đó, đất nước ta bước vào một ngã rẽ đầy sự tăm
tối, từng bước, từng bước đi vào
vòng nô lệ theo “đúng quy trình”.
Hành động có hệ
thống và màn diễn đẫm máu
Cho đến gần đây, nhà
nước Việt Nam mới công nhận một số điều mà
người dân đã bàn tán bao năm nay về quan hệ Việt –
Trung. Năm 1958,
Phạm Văn
Đồng trên cương vị Thủ tướng có công hàm gửi
Trung Cộng, công nhận Tuyên bố về
lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trong đó bao
gồm cả quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa của Việt Nam mà Trung Cộng gọi là Tây
Sa và Nam Sa.
Khi bọn bá quyền
Trung Cộng dùng vũ lực xâm chiếm quần đảo Hoàng
Sa, chính phủ Bắc Việt đã không hề mở miệng hé
răng.
Năm 1988, bọn bá
quyền Trung Cộng dùng quân đội tiếp tục dùng vũ
lực chiếm đóng một phần Quần đảo Trường Sa, hàng
loạt chiến sĩ bỏ mạng trên
biển, người dân Việt Nam không được thông tin về
sự hy sinh của họ. Việc mất
một số đảo của Tổ Quốc được im lặng như một món
quà cho bọn bành trướng để để
đi đến Hội nghị Thành Đô sau đó.
Ngày
3-4/9/1990, Hội nghị Thành Đô bí mật diễn ra, mở
đầu một
thời kỳ đau đớn cho đất nước. Những người cộng sản
đã mua bán, đổi chác sinh
mệnh dân tộc bằng hội nghị bí mật này.
Năm
1999, Hiệp định
Biên giới Việt Trung mờ ám được bí mật ký kết. Tất
cả những ai lưu tâm, tò mò
đến bản hiệp định này đều trở thành thế lực thù
địch của Đảng và nhà nước Cộng
sản. Nhiều người đã nếm mùi tù đày, lao lý bởi cái
Hiệp định này. Kết quả là
hàng loạt vấn đề mất đất, mất lãnh thổ trên biên
giới đã không được giải đáp
thỏa đáng.
Từ
năm 2000 trở lại
đây, Trung Cộng gia tăng các hành động cướp bóc,
lấn chiếm ngang ngược trên
biển, Đảng và nhà nước Việt Nam có những hành động
“hèn hạ vĩ đại” trước quân
giặc ngày càng hung hăng. Trên đất liền, những nơi
trọng yếu, các công trình
trọng điểm đều có mặt người Trung Quốc.
Đặc
biệt là việc gia
tăng bắt bớ, giam cầm, đàn áp trắng trợn những
người yêu nước, thương nòi. Có
lẽ trong lịch sử dân tộc ta, chưa có giai đoạn nào
những người yêu nước phải
đau đớn như giai đoạn hiện nay.
Dưới sự lãnh đạo
“tuyệt đối, tài tình và sáng suốt” của đảng Cộng
sản Việt Nam, sau 70 năm, đất
nước Việt Nam đã và đang dần dần lún sâu vào cơn
khủng hoảng, khốn đốn về mọi
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa… Vị thế
của đảng Cộng sản chìm sâu trong những
cơn oán thán, trong những câu chuyện bi, hài của
người dân và qua từng hành
động khó hiểu, bất nhất, lời nói ngô nghê của lãnh
đạo, của hàng ngũ quan chức.
Vị thế của Việt Nam trên con mắt quốc tế sa sút
đến thảm hại.
Đúng
lúc đó, anh bạn
vàng khổng lồ của Đảng gia tăng những hành động
xâm lăng, cướp bóc trắng trợn
lãnh thổ Việt Nam.
Máu
dân Việt đã đổ,
mạng người dân đã mất trên chính lãnh thổ mình.
Mưu đồ xâm lược bấy lâu nay đã
thêm một bước được thể hiện một cách trắng trợn và
ngang ngược, bất chấp mọi lý
lẽ, mọi thứ “tình hữu nghị” được bôi trát bằng bộ
mặt giả nhân giả nghĩa bấy
lâu nay. Nhà cầm
quyền Trung Cộng đã từng bước thể hiện bản chất
cướp bóc hung
bạo là sản phẩm kết hợp giữa chủ nghĩa bành
trướng đầy tham vọng và sự tàn bạo
không giới hạn của Chủ nghĩa Cộng sản trong
chiến lược xâm chiếm lãnh thổ Việt
Nam.
Tưởng
như vậy là giới
hạn cuối cùng, một đảng luôn tự ca ngợi mình là
“thiên tài, là vô địch là tinh
hoa của dân tộc, là đội quân tiên phong của đất
nước” đã bước nốt những bước
cuối cùng của sự bi đát và sẽ tỉnh ngộ để sớm từ
bỏ cái tư tưởng hão huyền và
hãi hùng Mác – Lênin để trở về phục vụ nhân dân và
đất nước.
Nhưng
không.
Sau
khi những hành
động xâm lược của Trung Cộng bằng giàn khoan và
tàu chiến trên biển, người ta
thấy gì?
Những cuộc biểu tình
yêu nước trên cả đất nước bừng lên, để rồi bị
dẹp tan với những lý do rất Chí
Phèo, người yêu nước lại tiếp tục ngậm ngùi uất
hận.
Tại Philippines ông
Thủ tướng nói vài câu mạnh mẽ, thì lập tức tại
Shangri-La Bộ Trưởng Quốc phòng
dội ngay một giáo nước lạnh vào mặt quan khách
toàn thế giới và nhất là 90
triệu người dân Việt Nam, bằng những lập luận
ngô nghê khi gửi thông điệp đến
kẻ thù xin “hữu nghị”. Không chỉ là đập
thẳng vào miệng Thủ tướng mà thể hiện
thái độ của một đội quân “bách chiến, bách thắng”
hiện nay đang sẵn sàng chiến
đấu ở mức độ nào.
Trước
một kẻ thù hung
hãn, đầy vũ khí trong tay và sự tàn bạo thể hiện
trong từng hành động trên thực
tế, việc một Bộ Trưởng Quốc phòng nêu quyết tâm
“không để xung đột xảy ra’ chỉ
có thể coi là hành
động bó gối xin hàng. Ngay cả hàng mấy
chục cuộc điện thoại
gọi sang Trung Cộng không thèm trả lời mà đòi “hữu
nghị” thì chưa rõ hệ thống
thần kinh của quan chức Việt Nam đã đến tình trạng
nào?
Ông
Tổng Bí thư Đảng,
người nắm chức Chủ tịch Quân ủy Trung ương thì lặn
mất tăm, đến mức người dân
phải nhắn tin tìm kiếm trên mạng. Trong khi cả hệ
thống cầm quyền, công an luôn
miệng rằng “đã có đảng và nhà nước lo” thì giờ lo
đến đâu không ai được biết?
Nhưng khi ông xuất
hiện thì chỉ bàn về “Văn hóa”. Thật tiếc, có lẽ
cái văn hóa
mà ông bàn đến không có bao gồm vấn đề ứng xử
của kẻ có trách nhiệm như thế
nào?
Nhưng
có những điều
lạ xuất hiện hiện nay:
Báo
chí sau bao năm
bị cấm ngặt không được đụng tới biển đảo, nay mở
hết công suất về biển đảo, góp
tiền, góp gạo cho Trường Sa… hết chương trình này
đến chương trình khác, cứ như
xưa nay Việt Nam chưa bao giờ tồn tại, nay mới
xuất hiện thêm biển và đảo vậy.
Quân
đội đã thề
nguyền là sẽ không bao giờ động binh với anh bạn
vàng của đảng để giữ tình hữu
nghị. Ông Thứ
trưởng Bộ Quốc Phòng chỉ biết lẩm bẩm: “Anh là
ai? Sao vật ngửa
thuyền tôi ra” và vẫn là “Tình hữu nghị Việt –
Trung bền vững đời đời”…
Nhưng
trên biển với
lúc nhúc súng đạn kẻ thù, tàu chiến nườm nượp, đảng và nhà nước kêu gọi đẩy
công dân tay không ra bám biển, giữ đảo.
Thế là bao mạng
người lại nằm xuống
biển khơi.
Thật
đau đớn và hài
hước.
Những
sự tréo ngoe đó
đã nói lên điều gì? Tại sao trước một kẻ thù hung
hãn với ý đồ xâm lược rõ
ràng, bộ máy CSVN lại hành động khi trống đánh
xuôi thì lập tức có kèn thổi
ngược?
Điều
đó chỉ có thể
giải thích một điều cần giấu kín. Rằng khi tất cả
biển đảo của Việt Nam đã rơi
vào tay giặc theo “đúng qui trình”, thì nhà nước
Việt Nam vẫn vô tội trước mắt
người dân, đã “làm hết khả năng mình, đã phản đối
nhưng kẻ thù quá mạnh, quá
nguy hiểm nên lực bất tòng tâm”. Nghĩa là lỗi không nằm ở nhà
nước mà nằm trong
tay nhân dân và kẻ thù. Và để an dân, thì
nhà nước lại học ông Phó thủ tướng Vũ
Đức Đam mà rằng: “Đời chúng ta chưa đòi được thì
đời con đời cháu chúng ta sẽ
đòi cho bằng được”.
Và cứ vậy, người dân
cứ phải chấp nhận tính mạng bị đe dọa, Tổ quốc
phải chấp nhận mất biển đảo vào
tay giặc, dân tộc chấp nhận một giai đoạn nô lệ
kiểu mới.
Và màn diễn sẽ kết
thúc ở đó còn Đảng thì vẫn quang vinh để kiên
định con đường đi lên CNXH với
người anh em 16 chữ vàng và 4 tốt.
Đó là màn diễn quá
độc ác và tàn nhẫn đối với nhân dân.
Hà
Nội, ngày
15/6/2014
Linh mục J.B
Nguyễn Hữu
Vinh
Nói thẳng thế này thì mất lòng là cái chắc, Cha Vinh ơi!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét