Đầu súng trăng treo
Thân mến tặng các bạn Bùi văn Ba, Hoàng Hải,
Bùi hữu Chiến ...và những bạn từng ngồi
chung chiếu “Tiếp quản” !
Tuyệt vời !
Thật không
dám khen “Phò Mã tốt áo”. Nhưng phải công nhận rằng : Ông “Nhà Thơ - Hoạ Sĩ”
này đã vẽ nên bức tranh tuyệt vời. Trước khi bước vào trận đánh, chờ giặc tới
mà lại đem treo “Chị Hằng” vào đầu mũi súng ! Thì hỏi rằng : Đánh giặc có khác
chi làm thơ ? Lại nữa, còn rất dân dã. Bức tranh ông vẽ nó phảng phất bút pháp
của dòng “Tranh Bờ Hồ”. Các tác giả của những họa phẩm này, thường cao hứng đặt
vào tranh những cánh buồm, những mảnh trăng vào chỗ bất ngờ nhất. Tăng thêm cảm
hứng cho người từ vùng quê lên thành phố mua tranh.
Không biết
tác giả định cho anh chiến sĩ quan sát vầng trăng ở tư thế nào ? Nhưng nếu được
tả toàn cảnh bức tranh, thì tôi sẽ cho hai anh chiến sĩ nằm gác chân lên nhau.
Truyền cho nhau hơi ấm đồng đội, xua đi cái lành lạnh đầu thu, chung tâm trạng
hồi hộp sắp vào trận đánh ... Chợt trở mình và thấy mảnh trăng hạ huyền mắc vào
đầu khẩu súng trường ghếch trên bụi Mua bên gối. Một đêm lại sắp qua ! Cái cảm
giác này, chỉ những người đã từng chung chiến hào mới biết nâng niu, trân trọng.
Cái cảm giác yên bình đối với người bên cạnh.
Tôi chuyển
ngành, ra ngoài quân đội đã lâu. Nhưng vào đầu năm 1975 lại được sống cái không
khí náo nức mỗi khi vào mùa chiến dịch. Cũng ba lô cóc, tăng võng, mũ tai bèo
... Hệt một anh chiến sĩ giải phóng !
Mũi một lên
đường trước chừng mươi ngày gì đó, do anh Tư T. làm trưởng đoàn. Mũi hai chúng
tôi xuất phát vào sáng ngày 29 tháng 4 – 1975 do anh L.V dẫn đầu. “Thê đội 2”
này là một “binh chủng hợp thành”, không thể thiếu, nếu muốn phát triển và củng
cố vững chắc, sau khi “đầu cầu” đã được đánh chiếm. Như thế có nghĩa là : Tuy
hai mũi, nhưng chung một nhiệm vụ tiếp quản các cơ sở truyền hình của đối
phương, khi có điều kiện. Còn một đặc điểm chung là đều xuất phát trước giờ
giải phóng. Mũi một tiếp quản đài chiều ngày 30/4/1975, thì mũi hai vào chậm ba
ngày, chiều 3/5/1975 mới hiệp quân được với mũi một.
Chuyện
không có gì đáng nói, nếu như sau này, ai đó không có sự ngộ nhận, dẫn đến biến
cái vinh dự của ngày 30 ấy thành cái thế độc tôn ... ngay cả với chiến hữu của
mình ! Vầng trăng ai nỡ xẻ làm đôi ? Hay hồn ma bóng quỷ từ thời Trịnh-Nguyễn
lại hiện hình ở thế kỷ hai mươi này ?
Ngay giữa
sân Đài Truyền Hình Giải Phóng tập hợp 4 lực lượng :
- Người cũ
của Đài Sài Gòn ở lại bàn giao.
- Người từ
căn cứ kháng chiến ® tiến vào.
- Người đi
tập kết từ năm 1954 trở về.
- Người
Miền Bắc tham gia tiếp quản.
Đến đây xin
phép cho tôi tạm dẹp cái hình ảnh thơ mộng “Đầu súng trăng treo”, để nói lên
một sự thật phũ phàng. Những hình ảnh
không ai muốn có. Những hình ảnh không ngờ mà có.
Biết thân
biết phận, nên cái lực lượng thuộc chế độ cũ, không dám ho he hóc hách ... Chờ
những quyết định ban ra từ ”Quý anh Giải phóng”.
Lực lượng
Miền Bắc, tăng cường cho tiếp quản, cũng thấy rõ cái vị trí “phết phẩy” của
mình.
Duy chỉ có
hai lực lượng, gốc là Miền Nam,
nhưng một là qua tập kết, được đào tạo những kiến thức cơ bản để tiếp quản. Một
là lực lượng đã có “công lao” trụ lại, nay từ bưng biền trở về giải phóng quê
hương. Cái “chiếu trên”, “chiếu dưới”, lúc này mới thực sự thành vấn đề. Tất
nhiên lực lượng tại chỗ, lực lượng “Rờ” phải độc chiếm thượng phong. Mặc cho
những nấm mồ viễn xứ, tuy đã lên đến hàng triệu vẫn trở thành đồ rởm (?) Hai
lực lượng “Ngụy” và “Miền Bắc” có trở thành ngoại đạo, cũng là chuyện tất nhiên
!
Đơn cử mấy
chuyện dưới đây :
Không biết
nẩy sinh từ những mâu thuẫn nào ? Mà một anh lái xe Miền Bắc, nguyên Bí thư Chi
Bộ ... (Vì sợ mang tiếng nặc danh, nên xin nói tên thật) Anh Hoàng Hải, đã đứng
giữa sân đài Truyền hình (Sài Gòn) gào lên :
- Thằng “7”
T. kia ! Mày có nghĩ ngày nào sẽ quay lại Miền Bắc không ? Tao thề sẽ nhổ vào
bộ mặt chó má của mày ! ...
Các xe từ
Uỷ ban Phát Thanh Truyền Hình Miền Bắc vào, khi quay ra đều được lật cả cốp xe
lên kiểm soát, giữa sân Đài và trước mặt những anh em của “Chế độ cũ”. Cái gì
có thể nói ở đây ? Sự nghiêm chỉnh hay lòng đố kỵ được nguỵ trang ? Nói trắng
ra là anh 7 sợ người ta chuyển hết hàng từ Miền Nam ra Miền Bắc. Cái nơi đã
thắt lưng buộc bụng nuôi anh ta khôn lớn, dành đủ đặc quyền đặc lợi cho những
đứa con xa xứ xa nhà. Đào tạo anh ta nên người để anh ta có đủ năng lực làm
“Cách mạng Rờ”. Thật là vu vơ và hồ đồ, vì nếu có thế thì còn đâu chiếc Phôn Va
Ghen để ngày ngày anh tự lái đưa chị 7 đến Đài ?
Đồng chí
ĐTH, thường vụ duy nhất từ Đảng Uỷ Miền Bắc cử vào, cũng sớm bị quy là quan hệ
vô nguyên tắc với gia đình sống ở Miền Nam (?) Đó là quan hệ giữa ông bố già và
anh con trai xa nhà hơn 20 năm đi tập kết. Thật không còn gì mỉa mai hơn ?
Ông VTD, thời đó là phó tổng biên tập
của Đài Truyền hình Việt Nam, khi nhắc đến anh 7, đã phải cay đắng thốt lên :
- Ôi cái
thằng ? Nó là em vợ mình đấy ! Nhưng ngay với mình, nó đối xử cũng có ra sao
đâu, nói chi ... ?
Tôi đau
lòng phải dẫn ra những điều phi đồng chí, thiếu đồng loại ấy để chứng minh giấc
mộng “Đầu súng trăng treo” đã phút chốc trở nên hão huyền !
Dẫn ra một
số chuyện để thấy cái hiện tượng kỳ thị ấy đâu có phải là cá biệt ? Trước khi
vào câu chuyện của tôi. Một anh chàng Miền Bắc được cử đi tiếp quản. Ngoài cái
nhiệt tình và trình độ cần thiết ra, không còn cái danh hiệu gì bảo đảm thêm.
Tuy đã được nhiều lần lãnh đạo ngành, giới thiệu là nằm trong mớ “những viên
gạch đầu tiên”, được đào tạo ở nước ngoài, nhưng lại vẫn ... không Đoàn, không
Đảng. Như thế có nghĩa là : Trước anh 7, tôi chỉ là con tép riu, còn anh 7 lại
là tay nhậu mắm có cỡ ! Một điều nữa là tôi vốn chủ quan, nghĩ rằng đúng là cứ
làm, nên khi anh 7 và lực lượng của anh dương bẫy ra thì tôi sập bẫy là cái
chắc. Than ôi !
Như đã kể ở
“ KỶ NIỆM TIẾP QUẢN ”, năm 1975, tôi tiếp quản phần Văn Nghệ của Đài Truyền
hình Sài Gòn. (Sau 30 tháng 4 đổi là Đài Truyền hình Giải Phóng). Tôi có một
cái “hớ” (đó là bạn bè phê tôi, chứ tôi không cho rằng mình hớ) là ở ngay vào
nhà một ông “Chuẩn tướng Ngụy”. Ông Phan duy Du. Ông này là bạn thân với gia đình
bà cô bên ngoại của tôi. Bà Hoàng thị Phương đã nói với ông bà Du cho tôi ở nhờ
để đi làm cho tiện vì nhà gần Đài. 39 Duy Tân với 9 Hồng Thập Tự chỉ một quãng
đường.
Tôi không
biết rằng ngôi nhà đó đã nằm trong tầm ngắm của một cái anh “4R” nào đó. Anh ta
đã chiếm 3 căn hộ phía ngoài và tính làm nốt cả cái căn hộ của ông bà Du cho nó
gọn một con hẻm. Để “làm cơ quan”. Thế là vô tình tôi đã thành vật chướng ngại
trên “con đường giải phóng” của anh 4R. Tôi đã là cái gai nằm trong mắt quý anh
4. Không biết quý anh đã làm thế nào mà hư cấu nên cái lý lịch sặc mùi phản
động, gán cho tôi ?
- Liên hệ
với CIA. (hẳn là vì đã ở nhà ông Du ?)
- Chiều
chiều đưa xe tải đi hôi tài sản, của đồng bào bên kia Cầu chữ Y. (dù cho đến
lúc ấy tôi vẫn chưa biết cái Cầu chữ Y hình thù nó ra sao ? Nó là i dài hay i
ngắn ?)
Chỉ chừng ấy tội thôi, một là “Gián
Điệp”, hai là “Thổ Phỉ” đã đủ cho tôi lãnh
án “Bóc lịch dài dài” thậm chí có thể “Dựa cột” ! Khi nghe LMK cán bộ cùng tiếp
quản (thậm chí còn là Xếp của tôi nữa), cho biết : Trong một cuộc họp nội bộ,
7R phụ trách bảo vệ đã thông báo như thế (?) “Dzậy” là kịch bản đã hoàn thành !
ĐTH cũng có
lời khuyên với tôi :
- Cậu nên
nhớ rằng : Mình là thường vụ duy nhất vào đây, thế mà cũng bị “xơi” mất một
chân ! ... ở hoàn cảnh cậu, phải hết sức thận trọng !
Thân phận
tôi lúc này thật là bèo bọt.Tôi nói với lái xe Bùi văn Ba, trưa nay đưa tôi về
nhà, nghỉ trưa với tôi, rồi chuyển dùm đồ đạc cho tôi về Hiền Vương. Nơi Lê
Nuôi cùng một số anh em tạm trú. Khoảng một giờ trưa hôm đó, chúng tôi khởi
hành. Chiếc Com măng ca đít vuông vừa quành ra khỏi đầu hẻm, thì thấy phía
trong rầm rập mấy chú bảo vệ, xách AKA đuổi theo, miệng hô xe dừng lại. Xe
không dừng, mà các chú cũng không dám nổ súng. Khi ấy tôi mới biết là mình vừa
qua một cửa ải và đã bị chém hụt.
Ở Hiền
Vương chưa nóng chỗ, tôi lại phải chuyển về Cao Thắng. Trả lại chỗ cho anh em
được phân chính thức ở đây. Thôi thì “Trâu chậm uống nước đục”, chịu khó leo
lầu cao vậy. Những chỗ thuận lợi thì anh em đã ở kín. Tôi cùng Dương Minh
Nguyên, Nguyễn Ngọc Ngoạn làm xóm giềng với nhau ở lầu 3. Tính ở lâu dài, nên
cũng như các anh em khác, tôi sắm dần cho mình một số tiện nghi. Sau này khi
thấy “cái mòi” nhân duyên không thể kham nổi. Tôi đã phải xin với Già Làng TL
cho tôi khăn gói về với mẹ đẻ. Đài TH Giải phóng chấp thuận, và báo cho tôi
biết chuẩn bị bàn giao để “Ô rơ lui”. Tin “Nội tuyến” cho tôi hay :
- Cậu cẩn
thận ! sẽ có vây ráp và lột sạch đấy !
Hú hồn hú
vía, tôi tuyên bố với bạn bè, những đồ đạc cồng kềnh, tiện nghi cho cuộc sống
mới sắm, ai thích cái gì thì xin cứ “tuỳ nghi di tản” Tôi nhờ lái xe Bùi hữu
Chiến lặng lẽ giúp tôi tản cư xa vùng khói lửa hơn. Một lần nữa tôi lại luồn vây và chạy thoát
cửa ải thứ hai.
Về trú nhờ
nhà ông Phạm văn Quý (cậu ruột của Nguyễn Thành). ở Nguyễn Cư Trinh được vài ba
ngày, thì thấy trong ngõ ngoài đường lại lảng vảng những bóng dáng khả nghi.
Biết là có động, nên phải gấp rút chuyển sang kế hoạch B.
Bà con khối
phố bỗng thấy một cái xe của Hải Quân Cách Mạng dừng ở đầu hẻm. Trên xe nhẩy
xuống toàn Thiếu tá, Đại Uý, vũ khí cá nhân tề chỉnh rầm rập tiến vào căn hộ
của ông Quý, tịch thu đồ đạc và “áp giải” một người vừa đến trú ngụ ra xe.
Chiếc xe nổ máy trực chỉ doanh trại 16 Lê Thánh Tôn. (Căn cứ cũ của Lữ Thuỷ
Quân Lục Chiến Sài Gòn) Xe vừa dừng bánh ở giữa sân thì đã thấy các cán bộ diễn
viên nam nữ của Đoàn Văn Công Hải Quân ùa ra đón. Người bị “áp giải” hôm đó
chính là tôi. Tôi lại thoát cửa ải thứ 3, với cảm giác hơi lạnh, lưỡi gươm của
những Quý anh 2, anh 3, anh 4R ... vừa sợt qua gáy.
Về đến đây
thì tôi đã có điều kiện ăn ngon ngủ yên. Giả dụ nếu tôi là tội phạm đào tẩu thì
có thoát đằng trời. Trốn vào đâu được. Một cái lệnh là xong. Nhưng khốn nạn,
đây chỉ là một sự trù úm, mang tính hiềm khích, một cuộc “Ngậm máu phun
người”... Nên cái doanh trại quân đội này hẳn không có sân khấu để diễn cái trò
hề ấy.
Hạ tuần
tháng 8 âm lịch, anh em giúp tôi chuyển đồ xuống tầu. Tiền Phương Hải Quân điện
về căn cứ, đề nghị hết sức giúp đỡ tôi, vì tôi đã giúp đỡ nhiều cho binh chủng.
Một con tầu 200 tấn, loại tầu duyên hải, men theo bờ biển Việt Nam Thống Nhất.
Ghé Nha Trang, ghé Quy Nhơn, ghé Đà Nẵng ... Hải trình 11 ngày mới trông thấy
Hải đăng Hòn Dáu. Tầu cặp quân cảng Hải Phòng vào ngày thứ 12. Chuyến đi này,
cùng đi có Thanh Phúc. Hai chúng tôi liên hoan với hải thuyền một bữa thoả thuê
rồi mới chuyển đồ lên quân cảng. Tối hôm đó Phòng Chính trị cho một buổi chiếu
phim. Xem phim xong, vào khoảng nửa đêm, anh em lại giúp tôi và Thanh Phúc đi
nhờ chiếc ô tô chiếu phim, vượt Bến Bính về doanh trại Bộ Tư Lệnh. Nhờ có
chuyến công tác của Thiếu tá Bình Lâm, chúng tôi theo xe anh về Hà Nội. Anh
Bình Lâm đã đưa chúng tôi về với tổ ấm yên bình trên đất Bắc.
Phải một
thời gian sau, Ân, một chú công an mới nói với tôi những điều mà tôi không hề
hay biết. Ân nói :
- Khi biết
anh đã “chạy” vào Tiền phương Hải quân, trong đó bố trí theo rõi, khi nào anh
lên xe rút theo đường bộ, thì tổ chức vây bắt. Sau đó biết anh đã theo tầu Hải Quân ra Bắc, thì giao
nhiệm vụ chúng em đón lõng ở Bến Bính. Cất vó anh ở đấy. Nhưng phục mãi vẫn
không thấy anh đâu, cuối cùng thì được biết anh đã về Hà Nội an toàn.
Lúc đó tôi đã mường tượng ra hai cửa ải
nữa, không kém phần quyết liệt do các “chiến hữu” của tôi đã bố trí để đón tiếp tôi ???
Nói đến
tình chiến hữu, tôi chợt nhớ lại câu thơ “Đầu súng trăng treo” của nhà thơ Chính Hữu ! Nhưng hỡi ôi ! Tuy
cuộc “ù té” xẩy ra vào giữa tuần trăng, nhưng tôi mải cắm đầu cắm cổ chạy. Có
kịp ngửng mặt lên đâu, mà biết mảnh trăng nó treo vào cái gì ? Có đúng vào đầu
súng hay không ?
*
Phụ Lục :
1/ Ở nhà
ông Phan Duy Du, tôi đã làm hai việc : Một là khuyên ông Du bàn giao bản sơ đồ
mạng lưới cáp ngầm từ Việt Nam
đi Mỹ. Hai là động viên ông Du đi tập trung học tập. Trấn an để bà Hoàn (vợ ông
Du) Yên tâm không có chuyện hành hạ trả thù đối với ông Du.
2/ Tôi đã
giúp mua rất nhiều trang thiết bị điện tử, để trang bị cho một số đoàn Văn công
Quân đội Miền Bắc. Tôi cũng trang bị một số thiết bị điện tử. Khi mang ra cũng
có giấy phép do Ban Quân Quản Đài Truyền Hình Giải Phóng cấp. Những thiết bị
này tôi đã dùng trong giai đoạn thí nghiệm Truyền Hình Mầu 1978 – 1981 của
ngành Truyền Hình. Ngoài ra không có vật dụng gì khác. Giấy phép do ông Phó ban
Quân Quản ký, hiện tôi còn giữ làm kỷ niệm. (Các chú đón lõng tôi ở Bến Bính
hẳn cũng khó “xực”).
3/ Còn về
cái nhân vật “7R”, tôi chỉ xin nhắc lại màn kịch bi hài khi nguyên bí thư chi
bộ Hoàng Hải, trước khi rời Sègòòng ra Bắc đã đứng giữa sân Đài, mà ca một khúc theo điệu “Khổng Minh toạ lầu”
:
- Tên 7 T.
kia ! Mi có nghĩ là có lúc nào đó ? ... (Không thấy bảo vệ xông ra túm cổ tên
ăn nói hỗn xược). Tôi hơi nghi ngờ sự nhẫn nhục ấy.
Gần ba chục
năm trôi qua, khi kể lại câu chuyện nhơm nhếch này, tôi cứ có mặc cảm là đã
vạch áo cho người xem lưng. Mà nghĩ cho cùng, có vén áo lên, lộ ra cái lưng ghẻ
lở, để người ta xức thuốc cho thì có điều chi mà “mắc cỡ” ?
Cuối cùng.
Trở lại với ý tưởng thơ mộng về trăng và súng đêm chiến hào, thì : Một khi bói
không ra tình đồng đội thì thi sĩ nào có nổi cái “Inspiration poétique” đầu
súng trăng treo ?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét